Huỳnh Văn Cát
Trên mỗi vùng miền của đất nước thân yêu đều có một dòng sông cái và các nhánh sông con. Trên
mỗi một dòng sông lại có những câu hò điệu hát mang phong cách
rất đặc trưing. Nếu ở xứ Thần Kinh “Núi Ngự Bình trước tròn sau méo, Sông Hương
nắng đục mưa trong”, có điệu hò mái nhì mái đẩy ngọt ngào được cất lên từ đôi môi tươi hồng của cô
gái, chàng trai thanh lịch khiến lòng người lữ khách vấn vương thì ở “đất Quảng
Nam chưa mưa đà thấm” lại có điệu hát hò khoan rất thiết tha nhưng vô cùng sống
động. Điệu hát dân gian nầy gắn liền với công việc lao động hằng ngày cũng như
trong những lúc nông nhàn. Ở đâu có con người,nhất là có nam có nữ, là ở đó rộn
lên tiếng hát tiếng cười. Nghệ nhân hầu hết là những kẻ chân lấm tay bùn không
có điều kiện học hành. Họ mù
chữ nhưng rất sáng nghĩa. Họ
không biết phép làm thơ nhưng họ biết gieo vần sáng tạo. Mọi cung bậc tâm hồn,
mọi cảm xúc thẩm mĩ… họ đều bày tỏ trực ngôn. Họ hát để mua vui, giải trí là
chính.
Nói đến hò khoan Quảng Nam, ta không thể nhắc đến vùng hò
khoan Đại Lộc, vùng đất có sông Đào, núi Lở, nằm ở tả ngạn Thu Bồn và hai bờ Vu
Gia. Có thể do địa hình khá đặc biệt: núi non hùng vĩ, sông nước hữu tình, đồng
ruộng phì nhiêu, xóm làng trù phú nên người Đại Lộc có tâm hồn phóng khoáng, có
sự nhạy bén trong ứng tác thi ca chăng?
Thuở ấy, dòng nước Thu
Bồn xanh trong, dòng nước Vu Gia xanh biếc
gặp nhau Giao Thủy, tạo thành vùng phù sa màu mở mà khúc sông Quảng Huế
là nơi nhộn nhịp, một đia điểm giao thương và cũng là điểm giao thông đường
thủy lên Nguồn xuống Phố, nơi “mít non gởi xuống , cá chuồn gởi lên” đều ghé
lại. Khúc sông ấy ngày nay không còn nữa nhưng địa danh ấy vẫn sống mãi trong
câu hò mà âm điệu hò khoan như mơ hồ lẫn khuất đâu đây:
Kể từ Quảng Huế ra đi
Kiểm Lâm, Lệ Trạch, Vân
Ly, Đa Hòa.
Chính nơi đây đã từng rộn lên những câu hò đối đáp rất dí dom. Họ
là những nghệ nhân vô danh nhưng tên tuổi của họ vẫn tồn lưu trong tâm
thức của người Đại Lộc. Tôi muốn nói đến
hai nghệ nhân Năm Trâu (Phú Sơn – Đại Nghĩa), ông già mù ăn xin và nghệ nhân Ba Xuân (Quảng Đại – Đại Cường), người
đưa đò ngang…
Ba Xuân đã từng nghe
tiếng Năm Trâu có giọng hát hay, đối đáp tài tình nên đem lòng ngưỡng mộ. Một
hôm bỗng thấy Năm Trâu cầm gậy theo sau đứa cháu nội, chân bước dò dẫm xuất
xuống đò, Ba Xuân cất giọng cợt đùa:
…….
Ơ…ơ..hơ.. .
Lâu ngày mới gặp anh
Năm
Khoan khoan hò lại để
tôi hỏi đôi lời
Hố hợi là hò khoan …
Tiếng hát vừa dứt thì trong đám đông có kẻ reo lên: “Ba
Xuân hát xỏ Năm Trâu rồi…” Câu nói còn dở dang, thì không gian bỗng lắng xuống,
vì Năm Trâu đã cất giọng thổ pha đồng:
……
Rủ nhau xuống phố chơi
Xuân
Mua vài chun hồng mao
trắng về may cái quần cho mỹ di
Vợ nhà hắn mới nói làm
ri
Đem nhuộm xanh non
quạch quạch, để đến khi có tỳ cho dễ thay.
Xuân chào Năm Trâu
bằng khoan khoan, hò lại (tiếng bảo
trâu dừng lại)thì Năm Trâu cũng chào Xuân bằng một câu hát thâm trầm(dùng cái
tên Xuân gắn với cái việc đàn bà có tì.
Đò ngang rộn ràng tiếng hát, thì đò dọc cũng
râm ran tiếng cười.
Cô lái đò dọc có cái tiểu tật sứt môi đang thả hồn theo cánh
buồm lộng gió sắp tách bến, bỗng xốn xang bởi câu hò châm chọc của một anh chàng có cái tay
cán vá ( đồ dùng múc canh):
….
Xuống đây bách bộ cho
rồi
Bởi sợ mưa to gió lớn,
chỗ ngồi không mui
….
Hướng mắt về phía người
hát và đậu trên gương mặt anh ta một cái nhìn cười cợt, cô lái đò khoan nhặt:
…
Cái việc ấy anh cũng chẳng nên lo
Nước sôi anh không sợ,
thì lửa lò anh sợ chi.
…
Đúng là “bốn chín gặp năm mươi”. Nếu khách đò
dọc dùng cụm từ “chổ ngồi không mui”(mui ghe) để bơn cợt cái tật sứt mui(môi)
của cô lái, thì cô ta lại dùng câu “nước sôi anh không sợ, lửa lò anh sợ chi”
(lửa lò là thứ lửa ngọn lò lên quanh nồi canh) để ám chỉ đối phương có tay cán
vá.
Giáo Củng ( người Đại Cường),ông giáo già có
máu văn chương chống gậy đứng nghe, chẳng may, bị ngã. Cô lái đò dọc liền lấy chữ nghĩa trong Thảo Roi ( tên
một bài võ dân tộc) ra châm chọc:
…
Bái tổ
quan âm, bái tầm loan thế
Thân phận thầy chừ như ghế ba chân
…
Giáo Củng vừa chống gậy đứng dậy vừa hát lại
thật nhanh trươc khi thuyenf rời bến:
…
Hòanh
khai hổ khẩu phục địa lôi
Cô cho tôi đóng một cái, đóng rồi đủ bốn chân
…
Cả vùng sông nước ầm lên tiếng cười khoái trá
Trong cuộc sống hiền hòa đầy chất nhân văn của ông cha ta
ngày trước Thu Bồn và Vu Gia đã kết tình thân ái , tạo nên địa danh Giao Thủy
trù phú nên thơ và khúc sông Quảng Huế ngày đêm vang vọng câu hò điêu hát.
Trong cuộc sống bon chen, tranh đoạt của chúng ta ngày nay, Thu Bồn, Vu Gia măt
nước luôn đục ngầu, giân dữ, cánh đồng dâu xanh gần trăm mẫu đã trôi về biển
đông. Và khúc sông xưa dã “biến vi tang điền” theo qui luật tự nhiên. Thế nhưng,
cái vùng sông nước hò khoan ấy vẫn muôn đời tồn tại với thời gian như một nét
văn hóa đắc biệt của một vùng miền góp phần tạo nên diện mạo chung của nền văn
hóa dân tộc, nếu chúng ta dày công sưu tầm và lưu giữ.
Giao Thủy mùa xuân
2013