Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

                                            TRÒ CHƠI TRỐN TÌM

            Từ nhỏ, tôi, chứng kiến cuộc sống cùng cực của mẹ và chị tôi, nên tôi từng nhủ với lòng là phải cố gắng học hành cho giỏi để lớn lên có thể giúp mẹ thoát được cảnh nghèo. Vì vậy, có những ngày mẹ tôi bán buôn ế ấm, chưa kịp mua gạo nấu cơm, tôi đành phải đi học mà bụng đói cồn cào, tôi vẫn mím chặt môi không dám than thở một lời. Cũng may, tôi là đứa học giỏi, luôn đứng đầu lớp từ thời tiểu học cho đến trung học, tôi lại rất giỏi văn, tôi quyết lòng thi đậu đại học văn chương, và ấp ủ  hoài bảo trở thành một nhà văn.
            Cuối năm học lớp 12, trong lúc tôi đang nôn nao chờ ngày tốt nghiệp và thi đại học, thì gia đình tôi lâm vào cảnh nợ nần, chủ nợ thường xuyên mắng chửi và đe dọa mẹ và chị gái của tôi. Khi mẹ tôi vừa khóc vừa nói nói với tôi là, mẹ không lo nổi cho tôi lên đại học, tôi cảm thấy chới với, nước mắt tuôn như mưa, vừa thương mẹ, vừa bị vở mộng, tôi có cảm giác như thế giới đang sụp đỗ trước mắt tôi. Ôi! Tội nghiệp cho tôi - đứa con gái 18 tuổi - làm được gì với sự khốn khó của gia đình không có đàn ông, từ lâu cha tôi  đã bỏ rơi mẹ và hai chị em tôi để đi theo người đàn bà khác. Tôi còn quá trẻ nên không đủ sức để quyết định số phận của mình - không có khả năng để theo đuổi ước mơ.
            Tôi cần một vị cứu tinh, hay nói đúng hơn tôi cần vị cứu tinh cho mẹ và chị tôi. Tôi mơ màng có một vị bồ tát đưa tay ra tưới những giọt nước cam lồ để cứu rỗi linh hồn tôi, nhưng chỉ có tiếng khóc của tôi dội ra từ trong lồng ngực. Tiếng khóc trong tuyệt vọng. Vậy mà không ai biết là tôi đang khóc. Tôi đờ đẩn đi trong khoảng không gian mênh mông mù mịt, giống như một thi thể không có linh hồn, không có sinh khí, không biết phải đi về đâu, không biết nơi đâu là bờ bến.
Tôi đi mãi, không có điểm dừng, cũng không có ai gọi tên tôi. Không có vị cứu tinh nào hết. Cái chết chợt xuất hiện trong đầu óc tôi. Nếu chết là giải thoát, thì chết có được không? Nếu được cho tôi còn mẹ tôi, chị tôi thì sao? Họ sẽ tiếp tục vất vả nhưng vẫn không thể trả hết nợ nần? Không, tôi không thể bỏ mặc họ, việc tôi có thể làm được trong lúc này là nghỉ học và tìm một việc làm.
Thế là, thi tốt nghiệp cấp ba xong, thay vì tôi đi thi đại học, thì tôi lại đi tìm một việc làm và trở thành cô thư ký cho một Công ty xuất nhập khẩu. Dù vậy, trong tôi vẫn luôn ấp ủ hoài bảo văn chương. Thỉnh thoảng tôi lại đến thư viện để đọc sách và tìm một chút yên lặng cho bản thân. Lúc tôi đọc bài thơ tuổi 18 của Khuê Việt Trường, 4 câu cuối làm cho tôi chạnh lòng, nên đã thuận tay viết mấy câu họa:
Em hãy đoán trước cổng trường ai đứng
Giọt sương nào sẽ rụng giữa đêm khuya
Mưa chiều nay chẳng giống những chiều xưa 
Em hãy đoán khi vừa mười tám tuổi 
Thơ họa:
Không ai đợi cổng trường mình em đứng
Giọt sương buồn lạnh lẽo giữa đêm khuya
Mưa chiều nay cũng khác mấy chiều xưa
Em bật khóc khi vừa mười tám tuổi
Đúng lúc đó, mãnh giấy của tôi bị làn gió của quạt máy bay đi mất, tôi cũng không màng tìm lại. Một người đàn ông nho nhã, tay cầm bài thơ đưa cho tôi, nói: “Thơ của cô phải không?”. Tôi miểng cưỡng nói “cám ơn”, người ấy lại nói “tuổi mười tám là tuổi có nhiều dự định cho tương lai, trông cô có vẻ lạnh lùng và chán nản quá vậy?”. Thế là tôi quen Tuấn Trình. Tuấn Trình hơn tôi 10 tuổi, là một nhà văn chuyên nghiệp, anh nói tôi có năng khiếu làm thơ. Thấy tôi chỉ cười buồn và không thích thú lắm với lời khen của mình, Tuấn Trình chẳng những không tự ái mà tiếp tục khuyến khích tôi.
Tuấn Trình đã có vợ ở dưới quê, anh ở một mình trong khu nhà trọ. Anh ấy nói với tôi, vợ anh ấy rất xinh đẹp nhưng cô ấy là một khúc gỗ, không có tâm hồn văn chương. Tôi không quan tâm vợ của Tuấn Trình là một người xinh đẹp hay chỉ là một khúc gỗ, nhưng tôi thích nói chuyện với anh ấy - đó là một sự thật. Thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau ở thư viện vào buổi tối. Dần về sau, chúng tôi đi uống nước nói chuyện với nhau rất hợp.
Có lần Tuấn Trình cho tôi xem bản thảo mới, ttruyện viết về một người đàn ông đã có vợ nhưng không được hạnh phúc “phải chăng đó là tâm sự của Tuấn Trình?”. Tôi còn quá trẻ để hiểu được thế nào là hạnh phúc, nhưng tôi có thể cảm nhận được Tuấn Trình đang thất vọng về hôn nhân của mình.
Tuấn Trình là một nhà văn nhưng làm thơ cũng rất hay, tôi không giỏi về thơ nhưng thỉnh thoảng cũng có thể trao đổi với anh ấy được. Anh nói không phải nhà văn nào cũng có bằng cấp đại học, cho nên tôi không nên quá thất vọng vì chưa thi đại học, tôi có sẳn năng khiếu nếu theo đuổi nghiệp văn chương thì tương lai sẽ trở thành một nhà văn có tên tuổi. Tôi không hy vọng lắm vào tương lai, nhưng tôi giữ liên lạc với Tuấn Trình và thỉnh thoảng cùng anh ấy ra ngoài uống nước hoặc đến nhà anh ấy để đọc truyện. Quen Tuấn Trình, trong lòng tôi có chút khởi sắc. Những sầu muộn cũng vơi dần. Những ngày tháng bên Tuấn Trình tôi nhận thấy mình trưởng thành hơn nhiều.
Tôi rất ngạc nhiên khi Tuấn Trình mời tôi ăn tối ở một nhà hàng nhỏ cặp bờ sông, anh ấy đã chuẩn bị sẳn bánh kem và hai đóa hồng, đó lại là ngày sinh nhật của tôi 19 tuổi. Tôi thật sự cảm động, vì đây là lần đầu tiên có người tổ chức sinh nhật cho tôi.Tôi hỏi sao anh tặng em hai hoa hồng, anh ấy nói hai hoa hồng có ý nghĩa “thế giới này chỉ có hai ta”. Tôi nhìn quanh. Nơi chúng tôi ngồi trong một cái tum bằng lá, cách biệt với những tum khác, cũng có thể nói là thế giới riêng của hai người. Tôi không biết nói gì, chỉ biết nhìn anh ấy với lời nói cảm ơn tận đáy lòng. Tôi chợt nghĩ “vợ anh ấy thật có phước”.
Tuấn Trình mở nhạc từ điện thoại của anh:
“Thuở ấy có em anh yêu cuộc đời
Yêu đôi môi hồng điểm nét son tươi
Yêu đôi tay ngà làn má thắm
Tóc xanh buông lả lơi
Nhớ em nhớ bao thuở ấy
Thuở ấy có em anh chưa từng sầu
Chưa đi âm thầm ngoài phố đêm thâu
Chưa mang hoang lạnh ngoài bến vắng
Hởi em em về đâu
Cho đời mình luôn nhớ nhau...”
“Bản nhạc này của Huỳnh Anh, nhiều người hát bản này nhưng anh nghe Đan Nguyên hát thì xúc cảm nhất”. Tuấn Trình nói.
 Thật vậy, lời hát thật quyến rũ, tràn đầy một thứ tình cảm nồng nàn, khiến người nghe bổng thấy rung động. Tuấn Trình nhìn tôi dịu dàng hỏi “em có lạnh không?”. Gió sông có làm tôi thấy lạnh nhưng tôi lắc đầu, không dám thú nhận. Vậy mà Tuấn Trình cũng nhận ra là tôi đang bị lạnh, anh di chuyển ngồi xuống cạnh tôi, rồi nói “để anh che gió cho em”. Sự va chạm nhẹ của Tuấn Trình vào vai tôi, một cảm giác kỳ lạ len lén vào lòng. Đột nhiên anh ôm lấy vai tôi nói: “Quyên à, anh muốn ở bên cạnh em để làm người che chở cho em!”
Tôi giật mình!
Trong tâm trí tôi, tôi ngưỡng mộ Tuấn Trình như một người thầy, người anh. Tôi chưa từng nghĩ sẽ thích một người đàn ông đã có vợ. Tôi hơi nhích ra nhưng Tuấn Trình càng ôm tôi chặt hơn “Quyên à, anh đã thích em ngay lần đầu gặp em, nhưng anh không dám tỏ bày cùng em”. Tôi lúng túng không biết làm gì, bổng tôi thốt lên: “Nhưng anh là người đã có vợ!” Tuấn Trình nới lỏng tay ra, đau đớn nhìn tôi rồi nói như bị nghẹn: “Anh xin lỗi”.
Mấy ngày sau, tôi không đến thư viện vì sợ gặp Tuấn Trình, nhưng trong lòng tôi thì lại rất muốn gặp anh ấy, sự mâu thuẩn đó làm tôi ngơ ngẩn, không thể nào tập trung vào một cái gì. Cuối cùng tôi cũng đến thư viện vào một sáng chủ nhật, quả nhiên Tuấn Trình cũng đến, anh nói, “xin lỗi em, hôm đó anh hơi đường đột, anh sẽ không như vậy nữa, đừng tránh mặt anh, được không?”. Giây phút đó, trái tim tôi dâng lên niềm thương cảm, một thứ tình cảm trước nay chưa từng có, tôi nói, “không có gì, em chỉ bị bất ngờ thôi, chúng ta vẫn như xưa mà”. Tuấn Trình cười vui vẻ, “mình đi về vườn của thằng bạn anh chơi đi, vợ chồng nó đi du lịch nước ngoài, nó nhờ anh thỉnh thoảng về đó cho nhà cửa không bị lạnh lẽo”.
Anh chở tôi đi bằng xe máy, rời xa thành phố về ngoại ô. Đến đầu con sông nhỏ, Tuấn Trình gửi xe lại ở một nhà dân, anh kéo tay tôi đi băng qua một cánh đồng, đến một khu vườn nhỏ trồng nhiều cây trái, được bao bọc bởi những bờ đê nhỏ dẫn nước từ sông vào. Quang cảnh nơi đây vừa đẹp vừa  mát mẻ, dành để nghĩ dưỡng thật là lý tưởng. Tôi vui quá không hay trời đã tối, lại không nở ra về, tôi đành gọi điện về xin phép mẹ ở lại nhà của một người bạn gái. Lần đầu tôi nói dối mẹ, cảm thấy hơi ngượng với Tuấn Trình.
Khi màn đêm buông xuống, sự yên tĩnh và không khí trong lành làm cho lòng người thanh thản. Ánh trăng rất đẹp, tỏa ánh sáng bàng bạc xuống mặt nước, lấp lánh như kim cương. Vẻ đẹp này khiến cho người ta mộng mị.
Tuấn Trình đột nhiên nhảy ùm xuống sông, vui vẻ gọi tôi: “Quyên, mau xuống đây đi!”. Tôi nhìn thấy trên mặt Tuấn Trình nở một nụ cười trong sáng, vô tư, cũng như dòng sông trong xanh, hiền hòa làm cho người ta có cảm giác nhẹ nhàng. Sau một chút lưỡng lự, tôi để nguyên quần áo nhảy xuống nước.
Dòng nước mát lạnh thấm vào người, tôi cảm thấy rất dễ chịu. Chiếc áo sơ mi bị nước làm cho ướt sủng dính chặt vào người, tôi ngoi lên ngụp xuống dưới ánh trăng mờ ảo.  Trong khung cảnh gió mát trăng thanh này, làm cho tôi quên đi tất cả muộn phiền. Tôi muốn thoát thai khỏi kiếp người hóa thân thành nàng tiên có cánh, tự do bay đi bất cứ nơi đâu, chiếc áo sơ mi bị ướt dính chặt vào người trở thành chướng ngại níu kéo cơ thể tôi.
Trong trạng thái mơ hồ, tôi từ từ cởi bớt nút áo. Tôi cảm nhận được làn nước đang nhẹ nhàng vuốt ve từng bộ phận trên cơ thể tôi. Lúc này tôi mới hiểu tại sao người nông thôn lại thích tắm sông như vậy. Tuấn Trình nhẹ nhàng bơi tới bên cạnh tôi, cẩn thận và dịu dàng ôm lấy tôi, giọng nói của anh êm ái vang lên “Quyên, anh yêu em”.
Chúng tôi ôm lấy nhau, dìu nhau lên bờ cỏ xanh. Đôi môi của Tuấn Trình lướt qua mắt tôi, tai tôi, cổ tôi, môi tôi... tôi cảm nhận hơi ấm từ đôi môi của anh truyền sang tôi. Anh vuốt nhẹ lên người tôi. Một cảm xúc kỳ lạ đầu đời con gái làm tôi rung lên. Trong cơn mê đắm bổng một giọng nói vang lên “ba của con vì mê người đàn bà khác mà bỏ bê mẹ con mình, sau này lớn lên con phải nhớ là đừng bao giờ quen với người đàn ông đã có vợ, đừng bao giờ làm người thứ ba phá nát gia can người ta”. Đó là tiếng của mẹ tôi - nó đã ăn sâu trong tiềm thức của tôi. Tôi thức tỉnh. Tôi nói: “Em không muốn làm người thứ ba”. Tôi đã từ chối Tuấn Trình.
Tôi quyết định không qua lại với Tuấn Trình nữa. Vì nếu còn qua lại tôi sợ rằng mình sẽ lún sâu, không thoát ra được lưới tình. Để trốn tránh tình cảm của Tuấn Trình tôi mở rộng tấm lòng với Hữu Thành, anh ấy hơn tôi ba tuổi, làm việc ở Phòng Kế hoạch cùng Công ty. Hữu Thành là người có dáng người cao to, khỏe mạnh, khuôn mặt xương, mũi cao, môi đỏ, da trắng, nói chung là “đẹp trai”. Hữu Thành xuất thân từ một gia đình nông thôn, anh lên thành phố học xong đại học rồi ở lại lập nghiệp. Anh là người hoạt bát nhưng không có chiều sâu. Tuy nhiên anh rất tốt với tôi, tốt đến mức tôi phải chấp nhận anh ấy. Cộng thêm sự khuyến khích của Mẹ và chị tôi. Mẹ tôi nói “con gái lấy chồng lựa người chung thủy, thằng Hữu Thành là mẫu người chung thủy, mẹ không nhìn lầm đâu”. Bạn bè tôi nói hai chúng tôi có vẻ như không xứng đôi. Một người quá đơn giản còn một người quá phong phú. Nhưng tôi vẫn lấy Hữu Thành. Năm đó tôi tròn 21 tuổi.
Sau đám cưới, Hữu Thành lúc nào cũng tràn trề hạnh phúc, còn tôi thì cảm thấy nghi hoặc mơ hồ. Anh yêu thương và chìu chuộng tôi hết lòng. Nhưng Anh chưa bao giờ đi được vào trái tim tôi. Anh không biết trong lòng tôi đang nghĩ gì, cũng không biết tôi cần gì. Sự quan tâm của anh thuộc về vật chất ở bên ngoài, không liên quan gì đến nội tâm.
Lập gia đình xong tôi vẫn tiếp tục học lớp đại học ngữ văn ban đêm, nếu không có sự khuyến khích của Tuấn Trình lúc trước, thì tôi đã không có đủ tinh thần để theo học lớp này. Tuấn trình đã nộp hồ sơ và đóng tiền học phí năm đầu tiên cho tôi. Ôi, nhắc lại Tuấn Trình thì có bao điều muốn nói, nhưng tôi sợ nhắc lại sẽ làm lòng tôi gợn sóng, phải chi Tuấn Trình là người độc thân, thì... có lẻ cuộc đời của tôi đã không giống bây giờ. Mối tình đầu tiên của tôi vẫn ở một góc sâu kín trong trái tim tôi.
Sống với Thành, tôi mới hiểu vì sao Tuấn Trình nói vợ anh ấy như một khúc gỗ không có tâm hồn văn chương. Thể xác của tôi thì thuộc về Hữu Thành, nhưng tâm hồn của tôi lại không nơi nương tựa. Tâm hồn tôi đôi khi lan man nhớ hai hoa hồng của Tuấn Trình tặng cho tôi trong lần sinh nhật 19 tuổi, nhớ khi Tuấn Trình che gió cho tôi, nhớ nụ hôn đầu tiên của Tuấn Trình ở bờ sông...những cảm giác khi ấy vẫn còn ngây ngất đến bây giờ, nhưng tôi đã từ chối anh để rồi hôm nay... mỗi lần nhớ đến là tim tôi có một chút gì đó xốn xang.
Có lẻ Hữu Thành quá chăm chúc cho tôi, tôi mặc nhiên hưởng thụ, hưởng thụ đến mức quá quen thuộc không còn có cảm giác gì. Hữu Thành vẫn yêu tôi say đắm, vẫn khao khát cơ thể tôi. Còn tôi không còn hứng thú với Hữu Thành, hay nói đúng hơn chưa bao giờ có hứng thú thật sự với anh ấy. Đêm tân hôn, anh ấy say mê tôi, còn tôi cho dù cố gắng đóng vai cô dâu nhưng cũng không có sự hòa hợp thật sự với anh ấy, chỉ đến khi anh ấy vào được trong tôi, tôi có cảm giác đau đớn và xen lẫn sự kích thích của thể xác, nhưng nó qua đi một cách nhanh chóng và cũng là lúc tôi chấm hết đời con gái. Tôi chính thức trở thành đàn bà. Một người đàn bà lạnh lùng và dửng dưng với tất cả, cho đến khi tôi gặp người ấy.
Tôi lang thang trong một nhà sách, vô tình đánh rơi vài quyển sách xuống sàn, trong lúc tôi cúi xuống để nhặt thì có người đến giúp tôi. Tôi ngẩng lên, bắt gặp đôi mắt to đang nhìn tôi, tôi lúng túng nói: “Cảm ơn”. Người ấy cười với tôi, một nụ cười ấm áp và quyến rũ đến mức xao xuyến lòng người, rồi nói “không có chi”. Sách được xếp vào kệ như cũ, người ấy hỏi tôi, “em có thấy quyển sách có tựa đề là: 10 điều tạo nên số phận, của tác gỉa David Simon hay không?”. Tôi lắc đầu. Người ấy nói tiếp, “anh đã đọc nó trên mạng rồi, rất hay”. Tôi hơi tò mò, “nếu đã đọc rồi sao còn đi tìm?”. Người ấy cười, “vì anh muốn tặng nó cho một ngời bạn”. Thì ra là vậy. Cuối cùng tôi đã giúp người ấy tìm được quyển sách đó. Người ấy có vẻ rất mừng, trên kệ còn ba quyển anh lấy hết, rồi chào tôi ra quầy tính tiền.
Khi ra cổng, tôi lại gặp người ấy. Anh không dồn dã nhưng ân cần đưa cho tôi quyển “10 điều tạo nên số phận,” và nói “tặng cho em đó”. Thấy tôi ngập ngừng, anh nói, “chỉ là muốn cảm ơn em đã giúp anh tìm được sách này”. Tôi cầm lấy, trong lòng suy nghĩ lung lắm “vì sao anh ta tặng sách cho mình, có ý đồ gì không?”. Tuy là tôi thích gương mặt đẹp trai và nụ cười lôi cuốn của người ấy, nhưng tôi vẫn làm ra vẻ lạnh lùng. Tôi định chào tạm biệt, người ấy lại nói: “Anh là Phi, anh có vinh dự được biết số điện thoại của em không?”. Rất điệu đàng. Tôi không muốn từ bỏ cơ hội được làm quen với Phi, hơn nữa là do anh ta chủ động trước. Trao đổi số điện thoại xong, chúng tôi chào tạm biệt nhau.
Vài ngày sau, Phi gọi cho tôi và hỏi tôi đã đọc xong quyển “10 điều tạo nên số phận” chưa, tôi nói đã đọc xong, anh hỏi tôi thích nhất chương nào, tôi nói thích nhất là chương nói về “bình yên”, Phi nói anh cũng thích chương này, nhất là đoạn tác giả đã nói về một “trò chơi trốn tìm” thời thơ bé. Anh nói, con nít ở quê anh thì gọi là chơi “năm mười” - vì khi chơi, phải bịt mắt và đếm “năm, mười, mười lăm, hai mươi...”, cho đến một trăm sau đó sẽ đi tìm người trốn. Còn người trốn thì cố “núp” cho thật kỹ. Nhưng nếu chờ lâu quá không thấy bạn phát hiện thì lại nhảy ra ngoài chỗ núp để gây sự chú ý, sau đó lại trốn tiếp, nếu bị phát hiện thì lại cười vui vẻ, nếu không bị phát hiện thì trong lòng rất lo sợ, sợ bị bỏ rơi. Thật kỳ lạ - một người tìm cách ẩn núp nhưng lại lo sợ bị bỏ quên - đó chính là một nghịch lý - mà tác giả nêu lên.
Thật trùng hợp, đây cũng là đoạn mà tôi có nhiều suy nghĩ về nó, vì lần đầu tôi biết được có một cách lý giải về tâm lý con người - thông qua một trò chơi nhân gian - mà lại mang tính triết lý thâm sâu như vậy.
Chúng tôi nói chuyện với nhau không dứt ra được. Phi nói, “máy anh sắp hết pin rồi, nhưng anh lại không muốn kết thúc lúc này, còn nhiều điều anh muốn nói nhưng chưa nói xong, em có thể cho anh một điều ước là được gặp em không?”. Khó mà từ chối một lời hẹn hò lãng mạn như vậy. Tối hôm đó tôi đi ra ngoài cùng với Phi. Chúng tôi đi bên nhau rất lâu, không biết đi qua biết bao nhiêu con đường, bao nhiêu khu phố. Cuối cùng chúng tôi dừng lại trong một công viên cạnh bờ sông. Phi nói “mấy ngày qua anh từng mơ ước được ở bên em, hôm nay đã thành sự thật, cảm ơn em đã cho anh được cái diểm phúc này”.
Không khí ở công viên thật trong lành, mang theo hương thơm thoang thoảng của cây cỏ. Tôi có cảm giác như đã tìm được một nơi chốn bình yên, và bờ vai của Phi đang sẳn sàng cho tôi dựa dẫm. Tôi trộm nhìn anh, anh như đọc được suy nghĩ của tôi, anh kéo nhẹ đầu tôi nghiêng vào vai anh, Nhưng tôi chợt ngồi thẳng người, sợ sệt và hoài nghi như một đứa trẻ gặp một người xa lạ.
“Em là một nàng công chúa rất dễ thương và hiền lành, ai nở bắt nạt em, mà em lại sợ?”. Không ngờ Phi có thể nhìn thấu tâm can của tôi. Anh lại nói “Cô bé khờ à, anh đã bắt được em rồi, đừng ra sức ẩn núp nữa”. Có hai cô gái đi ngang chúng tôi, các cô không ngần ngại mĩm cười với Phi, anh cười đáp trả một cách tự nhiên. Bất giác tôi nghiêng đầu vào vai anh, hai cô gái bỏ đi. Ánh mắt của Phi đăm đắm nhìn vào tôi, ánh mắt đó hút hồn tôi.
Tôi phát hiện ra, cánh cửa tình cảm bị đóng bao lâu giờ đã mở ra, giống như chim sổ lồng, cá ra đại dương, tôi không đắn đo gì nữa, nép sát người vào Phi. Phi nói, “em là người con gái tinh tế nhất, dịu dàng nhất mà anh từng gặp”. Tôi say giọng nói của anh, say ánh mắt của anh, say vòng tay của anh, say hơi ấm của anh. Tôi đã phải lòng Phi rồi.
“Em có giọng nói êm ái và quyến rũ, khiến cho người nghe bị mê hoặc, anh mê giọng nói của em”. Phi càng nói, tôi càng say. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao người ta nói “phụ nữ yêu bằng tai”. Tôi không biết những gì Phi nói có thật lòng hay không, nhưng lời nói của Phi du dương bên tai tôi. Phi rất hiểu tôi, biết tôi cần gì. Phi xuất hiện đúng lúc như một vị thần tình yêu - và tôi đã yêu anh ngay lúc đó. Anh chính là người tình trong mơ ước của tôi.
Phi là kiến trúc sư làm việc tại một viện kiến trúc, anh đã có vợ, anh cũng biết tôi đã có chồng, nhưng chúng tôi không quan tâm đến điều đó, bởi vì chúng tôi cần có nhau. Tôi khao khát yêu và được yêu, Phi đã cho tôi biết yêu là như thế nào, nếu tôi từ chối Phi - có khác nào tôi từ chối chính bản thân mình. Tôi không muốn bị bỏ lại mãi mãi như trong trò chơi trốn tìm.
Phi bước vào thế giới của tôi mạnh mẽ đến mức tôi không thể kháng cự, anh nhanh chóng chiếm lĩnh toàn bộ trái tim tôi. Một ngày không gặp anh là nổi nhớ nhung làm tôi không thể tập trung vào một cái gì. Tình yêu bí mật giữa tôi và Phi ngày càng sâu đậm, ở bên Phi, tôi biết được sự  rung động của con tim là như thế nào. Tôi đã yêu Phi thật rồi.
Hữu Thành và Phi là hai con người hoàn toàn khác biệt. Hữu Thành lo lắng cho tôi đủ đầy về vật chất, cho tôi một mái ấm gia đình. Còn Phi chăm sóc cho tôi về tinh thần và tâm hồn. Tôi thấy mình hạnh phúc hoàn toàn. Tôi không thể thiếu hữu Thành và rất cần có Phi.
Tôi không thế thiếu Hữu Thành, vì anh là nơi chốn để tôi đi về. Thành là mẫu người chung thủy vô điều kiện, anh từng nói với tôi, “anh sẽ không bao giờ từ bỏ em - trừ phi là cái chết”. Trong mắt Hữu Thành tôi là một viên ngọc quý có một không hai. Điều này với tôi cũng rất quan trọng. Vì tôi biết được vị trí quan trọng của tôi trong lòng anh. Tôi không muốn từ bỏ vị trí cao quý đó. Nhưng Hữu Thành quá đơn giản và thực tế, anh chưa bao giờ chạm đến tâm hồn tôi, chưa bao giờ hiểu được tâm tư sâu kín của tôi. Nhưng cuộc sống đâu chỉ đơn điệu như thế, cuộc sống có những cung bậc khi trầm khi bổng, như một bản nhạc giao hưởng, làm cho người ta ngất ngây, say đắm.
Tôi cần có Phi, sự lãng mạn và ngọt ngào của Phi, mang đến cho tôi cảm giác hưởng thụ của người đàn bà hạnh phúc cả về thể xác lẫn tâm hồn. Không có Phi, cuộc sống của tôi ví như loài gấu miền bắc cực đi ngũ đông, tuy ngũ nhưng không chìm sâu vào giấc ngũ, tim vẫn đập và tâm hồn vẫn khao khát tình yêu. Nụ hôn của Phi đã chạm đến linh hồn tôi. Tôi lập tức đón nhận bằng tất cả tấm lòng.
Tôi bị bấn loạn khi biết mẹ tôi đã buộc chị hai của tôi phải chấm dứt mối tình với một người đàn ông đã có vợ. Chị tôi vốn dĩ là người con hiếu thảo, chị vô cùng đau khổ nhưng rồi cũng phải chia tay với người yêu. Cũng từ đó, tôi ít thấy chị cười, không thấy chị có bạn trai, trái tim của chị dường như đã chết, không biết đến bao giờ mới hồi sinh.
Tôi sợ một ngày nào đó, mẹ biết được chuyện của tôi với Phi, mẹ sẽ ngăn cấm tôi qua lại với Phi. Ôi, nổi ám ảnh về sự phụ bạc của người cha đã phù bóng đêm lên cuộc đời của hai chị em gái tôi.
Cha tôi là người đàn ông đã lừa dối mẹ và thiếu trách nhiệm với chị em tôi. Phi thì khác, Phi không lừa dối tôi, chúng tôi đến với nhau để tâm hồn chúng tôi có được một nơi chốn bình yên. Để cuộc sống của chúng tôi được sống tốt hơn. Tôi và Phi, không ai từ bỏ trách nhiệm gia đình. Không có Phi - tôi sống như một khúc gỗ không có linh hồn.
Cuối cùng tôi cũng nhận được bằng tốt nghiệp đại học ngữ văn. Tôi cầm tấm bằng trong tay mà nhớ Tuấn Trình. Không biết bây giờ anh ấy ra sao? Vẫn sống với người vợ “khúc gỗ” hay đã có một hạnh phúc tron vẹn. Dù sao, Tuấn Trình đã để lại trong tôi những cảm giác ngọt ngào đầu đời con gái. Bằng cấp đại học không phải là tiêu chuẩn để trở thành nhà văn, nhưng nó chứng minh được là tôi đã vượt qua thử thách của số phận, tôi cảm thấy tự tin hơn, tôi sẽ thực hiện ước mơ trở thành nhà văn của mình.
Hữu Thành vui mừng còn hơn cả tôi vui mừng. Anh đòi tổ chức một tiệc ăn mừng tại nhà. Chúng tôi chọn ngày chủ nhật. Hữu Thành mời mẹ tôi, chị tôi và một số bạn thời trung học của tôi. Anh không cho tôi làm gì cả, anh nói hôm nay là ngày đặc biệt của tôi, anh sẽ làm hết mọi việc kể cả việc nấu nướng. Hữu Thành nấu ăn còn giỏi hơn cả tôi.
Sáng sớm, Hữu Thành đã đi siêu thị để mua thức ăn. Tôi chỉ làm những công việc vặt vãnh và sửa soạn cho bản thân mình. Đến 9 giờ, Hữu Thành vẫn chưa về. Tôi bắt đầu sốt ruột, tôi điện thoại cho anh, tiếng chuông vang lên nhưng anh không bắt máy. Đến 9 giờ 30 mà anh vẫn chưa về. Làm sao mà nấu nướng kịp đây? Việc này không giống tính cách thường ngày của anh. Tôi đi đi lại lại, ngóng ra cửa. Tôi bắt đầu lo lắng. Thường ngày anh chạy xe rất nhanh, ngồi phía sau tôi luôn nhắc anh “chạy chậm thôi anh”. Chẳng lẻ có tai nạn, tôi vội lắc đầu không dám nghĩ tiếp nữa. Tôi muốn đi siêu thị để tìm anh, nhưng lại sợ mọi người đến nhà lại không có ai.
Đến 10 giờ, chị và mẹ tôi đến. Chị hỏi:
 “Sao có mình em ở nhà, Thành đâu?”
“Đi siêu thị từ sáng sớm mà đến giờ vẫn chưa về!” Tôi nói.
“Siêu thị gần ngay đây thôi mà, mua gì thì cũng khoảng một tiếng là xong,” mẹ tôi nói, “con có điện thoại cho Thành chưa?”
“Dạ, con có gọi, nhưng anh ấy không bắt máy”
“Hồi nảy chạy ngang siêu thị, thấy xe cộ đông lắm, người ta nói bị đụng xe, có khi nào....” chị tôi không nói hết câu. Tôi bắt đầu lo.
“Mẹ và chị coi nhà dùm con, để con ra đó xem thử”
Tôi không thay quần áo, cuống quýt ra khỏi nhà. Trước siêu thị, một đám đông đang vây quanh chiếc xe máy, tôi nhận ra chiếc dream màu đỏ của Hữu Thành, trên mặt đường còn đọng lại vài vết máu. Tôi hỏi một người lớn tuổi:
“Bác ơi, người bị đụng xe có phải là một người đàn ông cao lớn không?”
“Phải, một người bị thương nặng lắm, còn người kia đưa người đó đi bệnh viện rồi!”
Tôi lao vào phòng cấp cứu của bệnh viện, một y tá chặn tôi lại. Tôi vừa thở hổn hển vừa nói lắp bắp: “Chồng...chồng tôi bị đụng xe...đưa vào đây, có...nặng không?”
“Người mới vào hả? Nặng lắm!”. Rồi cô y tá nói tôi phải chờ ở bên ngoài, cấp cứu xong sẽ có thông báo.
Tay chân tôi run lẩy bẩy. Tôi vịn vào tường rồi ngồi ngã xuống ghế. Trước mắt tôi tối sầm. Nghĩ tới việc Hữu Thành, chồng tôi, từ bỏ tôi mà đi, tôi không thể tưởng tượng nổi cuộc sống của tôi ra sao? Không! Tôi không thể sống mà không có anh ấy. Giây phút đó tôi phát hiện ra Hữu Thành quan trọng với tôi tới mức nào.
Tôi gặp Hữu Thành vào lúc cuộc sống của tôi vô cùng khốn đốn, gia đình túng thiếu lại nợ nần, đồng lương ít ỏi của tôi không giúp gì cho mẹ tôi nhiều. Mọi hy vọng tiêu tan, hoài bảo sụp đổ. Lẫn tránh tình yêu của Tuấn Trình, trái tim của tôi trở nên lạnh lẽo, tâm hồn tôi dật dờ không nơi nương tựa.
Hữu Thành đã mở rộng tấm lòng, đã bao bọc tôi bằng tình yêu thương chân thật, anh làm điểm tựa vững chắc cho tôi. Anh sùng bái tôi như mọt nữ thần. Sự trân trọng và nâng niu của anh khiến tôi ngẩng cao đầu đi về phía trước. Nếu không có Hữu Thành, liệu tôi có được như ngày hôm nay?
Bấy lâu nay, Hữu Thành luôn chăm sóc cho tôi chu đáo từ việc nhỏ đến việc lớn. Chẳng những như vậy, mà anh đã cùng tôi trả hết nợ nần cho mẹ tôi, hiếu thảo với mẹ tôi, lo cho mẹ tôi có cuộc sống đầy đủ hơn xưa, cho nên mẹ tôi xem anh ấy như là con trai ruột vậy. Ngoài giờ đi làm, anh về lo hết công việc nhà để cho tôi có thời gian học hành. Vậy mà anh chưa bao giờ than thở, kể lể với bất cứ ai. Ngược lại tôi cho việc tận tâm, chu đáo của anh là điều đương nhiên, đương nhiên như không khí tôi đang thở mà không hề chú ý đến sự tồn tại của nó, không nhận ra rằng nếu một ngày không có không khí để thở thì không thể duy trì mạng sống. Tôi còn xem thường anh là người chỉ biết về vật chất bên ngoài, không có nội tâm. Đến bây giờ tôi mới hiểu câu nói “Khi một người sống trong cái tổ ong sẽ không nhận ra sự ngọt ngào của mật”. Đúng là tôi sống trong phước mà không biết. Hữu Thành luôn làm thế nào để đem lại những điều tốt lành nhất cho tôi, còn tôi là đứa vô tâm chỉ biết nhận mà không biết cho, tệ hại hơn là tôi không biết đủ.
Giờ đây có muộn màng không, khi tôi nhận ra Hữu Thành mới đúng là người tôi yêu, thì anh ấy đang gặp nguy hiểm, sống chết chưa rõ. Tôi không thể chịu nổi, nếu tôi chưa kịp báo đáp tình yêu của Hữu Thành thì Hữu Thành đã rời xa tôi vĩnh viễn. Trời ơi! Có phải đây là sự báo ứng cho sự thiếu chung thủy của tôi. Tôi thật đáng ghét.
Càng nghĩ, đầu óc tôi càng bấn loạn, nước mắt cứ trào ra.
Cánh cửa phòng cấp cứu bật mở. Một đám người nhốn nháo chạy ào đến. Người đàn bà vừa khóc vừa kêu “Nam, Nam con ơi...” rồi nắm tay cô y tá hỏi “cô ơi, con tôi có sao không?”. Cô y tá nói: “Bà bình tĩnh lại đi, nhờ đưa vô cấp cứu kịp thời, nên không còn nguy hiểm nữa, chờ phẩu thuật xong sẽ đưa ra phòng hồi sức”.
Qua màn nước mắt tôi thấy Hữu Thành trong đám người đó. Tôi đứng bật lên, miệng há hốc “đúng là Hữu Thành mà”. Hữu Thành nhận ra tôi, anh kêu lên “Quyên, sao em ở đây?”. Tôi nhào đến ôm chặt anh, “anh ơi, anh có làm sao không?”. Hữu Thành ngạc nhiên nói, “anh đâu có làm sao!”. Tôi nới tay ra, sờ vào mặt anh, tay anh “người ta nói anh bị xe đụng nặng lắm, ở trong phòng cấp cứu, nhưng sao anh lại...”. Anh bật cười, “không có đâu, là người khác, anh đưa anh ta vào bệnh viện”.
Thì ra lúc Hữu Thành đến trước cửa siêu thị nhìn thấy tai nạn, người lái taxi sợ quá bỏ chạy, anh báo công an, gọi xe cấp cứu rồi đưa người bị nạn vào đây, sau đó anh còn báo tin cho người nhà của nạn nhân, nên ở lại bệnh viện cho đến bây giờ.
“Em thấy chiếc xe của anh ở hiện trường, em tưởng...” tôi lắp bắp.
“Siêu thị gần nhà mình, gửi xe mất thời gian nên anh đi bộ, chiếc xe đó giống của anh thôi”.
“Trời! làm em hết hồn luôn, tưởng anh đã...”
“Vợ yêu ơi, anh sẽ không bao giờ bỏ em đâu, không có anh, ai sẽ lo cho em?”
Tôi bật khóc và ôm Hữu Thành, mặc cho mọi người xung quanh.
Bà mẹ của nạn nhân bước tới nói với Hữu Thành “Cậu trai trẻ, cậu đã cứu con tôi, nhà tôi chỉ có mình nó là con trai độc nhất, cả nhà tôi vô cùng cảm ơn anh”. Vợ con của nạn nhân cũng nói cảm ơn anh hết lời. Những người xung quanh nói mỗi người một câu: “Cậu ấy tốt lắm, đưa bệnh nhân vào rồi còn lăng xăng đi mua thuốc cấp cứu, ai cũng tưởng cậu ấy là anh em ruột của nạn nhân, hóa ra chỉ là người dưng. Cậu ấy tốt bụng thật”.
Tôi cảm thấy tự hào khi đứng bên cạnh Hữu Thành, ai nấy cũng nhìn anh bằng cặp mắt thán phục trước nghĩa cử cao đẹp của anh ấy. Hữu Thành là một người đàn ông có nghĩa khí. Nhìn những người thân của nạn nhân đối xử với Hữu Thành một cách tôn kính, tôi cảm thấy mình may mắn đã có một người chồng như anh, vậy mà bấy lâu nay tôi luôn cho rằng anh không phải là người đàn ông lý tưởng trong lòng tôi.
Điện thoại vang lên, là của chị tôi. Hữu Thành nói “Thôi chết rổi, hôm nay là ngày có ý nghĩa quan trọng của em, vậy mà anh ... làm trễ nãi hết, làm sao bây giờ?”. Mặt anh đỏ bừng, nhìn tôi mà ái nái. Tôi nói:
“Không có làm sao hết, dời lại bữa khác cũng được mà anh, điều quan trọng là hôm nay em vừa nhận ra hạnh phúc thật sự của cuộc đời mình”.
Có lẻ, Hữu Thành không hiểu hết những ý tứ trong lời nói của tôi, vì anh vốn là người đơn giản mà.
Bửa tiệc cũng được tổ chức vào buổi chiều và kéo dài cho đến tối. Tất nhiên câu chuyện của Hữu Thành làm cho mọi người yêu mến anh hơn, còn tôi thấy mình hãnh diện hơn. Khi mọi người ra về hết. Hữu Thành quá mệt mõi, anh ngũ quên trên ghế salon. Nhìn gương mặt đẹp trai và hiền lành của anh đang vô tư trong giấc ngũ, tôi dâng lên niềm thương cảm vô cùng.
Kết hôn với Hữu Thành, nhưng trái tim tôi lại chôn dấu tình yêu của Tuấn Trình, tôi đã từ chối Tuấn Trình chỉ vì tôi sợ hải sẽ có một kết quả không đáng có, nhưng tôi vẫn luôn khao khát có một tình yêu giống như Tuấn Trình đã dành cho tôi, vô tình tôi đã xem hình tượng của Tuấn Trình như một mẫu người người đàn ông lý tưởng.
Hữu Thành không giống Tuấn Trình - tôi thất vọng. Phi xuất hiện, Phi vừa có sự nồng nàn của Tuấn Trình, vừa có sự lãng mạn của một người đàn ông từng trãi, Phi đã làm cho tôi u mê - và tôi đã ngã vào vòng tay của anh.
Giờ đây tôi đã hiểu, một tình yêu thật sự - là sự hòa quyện của niềm vui, nổi buồn và sự chia sẻ. Tình yêu được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau, không nhất thiết phải giống như Tuấn Trình hay là giống như Phi thì mới là tình yêu. Mặc dù Hữu Thành không nồng nàn như Tuấn Trình, không lãng mạn như Phi, nhưng anh đã dùng hành động thiết thực nhất, nhỏ nhặt nhất để chứng minh tình yêu của anh dành cho tôi, cho cả người thân của tôi. Đó là cách cho đi không cầu mong nhận lại của Hữu Thành. Tình yêu của anh mới thật sự là một tình yêu thiêng liêng.
Tôi biết người mà tôi nên yêu, nên trân trọng, đó chính là Hữu Thành, chồng tôi, chứ không phải là Tuấn Trình hay là Phi.
Có tin nhắn của Phi:
“Nghe tin em tốt nghiệp đại học, chắc là em đang vui mừng và hạnh phúc lắm. Hãy cho anh cái vinh dự được chia sẻ niềm vui với em. Anh chưa bao giờ thôi nhớ thương em”.
Phi luôn biết nói những lời ngọt ngào, ru ngũ lòng người. Anh là mẫu người tình lãng mạn của phụ nữ. nhưng hôm nay tôi không bị ru ngũ vì Phi, trái tim tôi đang hướng về Hữu Thành.
Phi không có tôi, anh sẽ có cô gái khác. Nhưng Hữu Thành không có tôi, anh sẽ không sống được, cũng như tôi - không có anh - tôi không thể nào tồn tại. Tôi và Hữu Thành là hai sinh linh đã định sẳn từ kiếp trước là sự hợp nhất - không thể tách rời nhau - trừ khi là cái chết.
Hữu Thành cựa mình, tôi dìu anh lên giường. Tôi cởi giày và quần áo cho anh. Tôi dùng khăn ấm lau mặt và lau người cho anh. Lần đầu tiên tôi ngắm cơ thể anh, một cơ thể cường tráng đầy sức sống. Cơ thể này chứa đựng một trái tim rộng lượng, bao dung và chung thủy. Trong trái tim đó - anh đặt tôi vào một vị trí rất quan trọng, vậy mà tôi từng xem thường vị trí đó. Thật là ngốc ngếch. Đắp chăn cho anh, tôi vào phòng tắm.
Vòi sen làm cho người tôi tỉnh táo và sảng khoái. Tôi mặc một chiếc áo ngũ bằng voan màu hồng thắm, ngồi vào bàn phấn, tôi xoa một ít kem dưỡng da. Khuôn mặt của tôi hiện lên trong gương, tuy có chút mệt mỏi nhưng vẫn tươi xinh, ánh mắt của tôi ngời sáng, mái tóc của tôi đen mượt, dài phủ lưng, ngực của tôi căng phồng. Tôi là một người đàn bà đã trưởng thành cả thể xác lẫn tâm hồn.
Bất ngờ Hữu Thành ôm tôi từ phía sau. Tôi nghe như có luồng điện chạy vào cơ thể. Lần đầu tiên tôi có cảm giác rung động khi Hữu Thành chạm vào tôi. Tôi xoay người, anh hôn tôi một cách nồng nàn. Chúng tôi ôm nhau như đôi tình nhân lần đầu yêu nhau. Đêm đó là đêm tân hôn thật sự của tôi với Hữu Thành.
Trái tim của tôi rộng mở đón nhận tình yêu của Hữu Thành.
Thì ra tình yêu rất đơn giản. Tình yêu là sự hòa hợp của hai con người về thể xác lẫn tâm hồn. Tôi đã làm cho tình yêu trở nên phức tạp, bởi sự khao khát của thể xác làm cho tư tưởng bị u mê đã vượt ra ngoài sự dẫn dắt của tâm hồn. Trong một thời gian dài tôi u mê trong một nghịch lý - bỏ ra nhiều thời gian đi tìm một người yêu thương tôi vô điều kiện - trong khi người đó đang ở bên tôi.
Một tuần sau đó, từ que xét nghiệm tôi biết mình đã có thai. Tình yêu của tôi với Hữu Thành được đơm hoa kết trái. Một sinh linh bé nhỏ đang tồn tại trong cơ thể tôi. Tôi lập tức điện thoại cho Hữu Thành. Anh đã reo lên như trúng số độc đắc. Lúc đó lại xuất hiện tin nhắn của Phi.
“Nổi nhớ thương em cứ làm cho anh trăn trở suốt mấy ngày qua. Mong là em đừng ẩn núp ở đâu quá kỹ. Hãy ra tín hiệu để anh tìm được em, để anh lại được ngắm nhìn nụ cười quyến rũ của em, được nghe giọng nói ngọt ngào của em. Anh rất mong được gặp em”.
Tôi đã không liên lạc với Phi suốt một tuần qua, kể từ ngày tôi hiểu lầm Hữu Thành bị tai nạn. Đã đến lúc tôi phải trả lời cho Phi.
“Em không còn phải ẩn mình và không còn sợ bị bỏ quên, vì em đã tìm thấy hạnh phúc thật sự của cuộc đời mình. Khi chúng ta gặp lại vẫn mĩm cười với nhau. Vì chúng ta đã có một hồi ức đẹp. Chúc anh hạnh phúc”.
Không biết những nhà văn đã bắt đầu trang viết đầu tiên của mình như thế nào? Còn tôi - trang viết đầu tiên của tôi - là sự trãi nghiệm về trò chơi trốn tìm - chính cuộc đời của tôi./.
Huyền Văn
(24/12/Noel 2013- 07/01/2014)


Thứ Ba, 7 tháng 1, 2014

" T đin t và t ng Vit Nam", mc ch cái nào cũng có sai sót

Góp thêm tiếng nói vì sự trong sáng của tiếng Việt
  Hoàng Tuấn Công 
NQL: Giáo sư Nguyễn Lân là  thầy của nhiều đàn anh khả kính của bọ Lập.  Giáo sư đã qua đời mà mình cứ đem cuốn sách của giáo sư ra nói thật không đành. Nhưng đây không phải cuốn sách bình thường, nó là cuốn từ điển, quan trọng hơn nữa nó là cuốn từ điển từ và ngữ Việt Nam. Do đó, những sai sót của nó không thể không nhắc đến, cũng là để góp thêm tiếng nói vì sự trong sáng của tiếng Việt như tác giả Hoàng Tuấn Công đã nói chữ không có ý gì khác.


Từ điển từ và ngữ Việt Nam - tác giả GS Nguyễn Lân. Xuất bản lần đầu năm 2000, tái bản lần 1 năm 2006, 2.119 trang; tập hợp 51.700 từ và ngữ - Nhà xuất bản Tổng hợp TP Hồ Chí Minh.
Lời Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh (dịp tái bản lần thứ nhất) cho ta biết: “Sau khi cuốn sách ra mắt bạn đọc, Tác giả và Nhà xuất bản đã nhận được nhiều ý kiến hoan nghênh công trình này, đồng thời tác giả cũng đã kịp thời sửa chữa, bổ sung những chỗ còn sai sót của lần xuất bản đầu tiên trước khi qua đời 7/8/2003”  “… công trình này của GS Nguyễn Lân dù có cố gắng đến đâu vẫn không thể tránh khỏi sai sót, khiếm khuyết …và rất mong nhận được sự ủng hộ và chỉ giáo của quý bạn đọc gần xa”. Trong “Đôi lời tâm sự thay lời tựa” GS Nguyễn Lân viết: “Trong năm năm qua, mặc dầu tôi đã để toàn tâm toàn ý vào việc biên soạn bộ từ điển này gồm 51.700 từ và ngữ, nhưng vì tuổi cao, có thể có những sai sót, dám mong các độc giả sách này vui lòng chỉ bảo cho”.Với tinh thần xây dựng, chúng tôi xin đáp lời ngỏ ý của GS Nguyễn Lân và Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh về cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam (tái bản lần thứ nhất đã được sửa chữa bổ sung của tác giả).
Để bạn đọc tiện theo dõi, chúng tôi xin được lược trích một phần nhỏ những sai sót theo mục chữ cái (từ A đến Y) của Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân:
A
A hành ác nghiệp (A: dựa theo; hành: làm; ác: ác; nghiệp: kiếp trước) Nói người độc ác hành hạ người khác:Người mẹ chồng a hành ác nghiệp.
Không đúng ! Thứ nhất: nghiệp không phải là kiếp trước. Phật học từ điển (Đoàn Trung Còn) giải nghĩa “ác nghiệp: nghiệp dữ. Những sự tạo tác dữ mà mình đã gây ra từ những đời trước hoặc trong đời nầy (….) Ác nghiệp là nhơn duyên, còn cảnh khổ đời này và cành khổ đời sau là quả báo”. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải nghĩa chữ “nghiệp”: “Cái nhân, như: nghiệp chướng 業障 - nhân ác làm chướng ngại”. Như thế, “nghiệp” đây không phải là “kiếp trước” mà là cái nhân. Có “ác nghiệp” (nhân ác) và “thiện nghiệp” (nhân lành). Có thể hiểu là hành vi, việc làm của người ta nó giống như hạt giống, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Mặt khác,“a” ở đây không phải “dựa theo” mà nghĩa là hùa theo.“A hành” là hùa theo người khác. A hành ác nghiệp là hùa theo người khác để làm điều ác chứ không phải “nói người độc ác hành hạ người khác” như cách giải thích của GS.
   Á nguyên (Á: sau một bậc; nguyên: bắt đầu) Như á khôi.
“Nguyên” ở đây là đứng đầu chứ không phải là “bắt đầu”. Mục từ “á nguyên”được tác giả chú “như á khôi”. Mà chữ “khôi” ở ngay trang trước đã được chính soạn giả chú nghĩa là “đứng đầu” đấy thôi.
Ái nam, ái nữ. Có cả hai bộ phận sinh dục ngoài của nam và nữ.
Nếu theo cách mô tả của GS Nguyễn Lân có lẽ đây là một ca sinh đôi có “cả hai bộ phận sinh dục ngoài” của một người nam và một người nữ nhưng chung một cơ thể chăng ? Theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức Ái nam. Tiếng gọi đàn ông hay đàn bà không đủ bộ phận sinh dục. Có khi gọi ái nam, ái nữ, cũng là người bán nam, bán nữ. Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê giải nghĩa: Ái nam, ái nữ. Có bộ phận sinh dục ngoài không giống của nam, cũng không giốngcủa nữ”. Như vậy cách “hình dung” về bộ phận sinh dục người ái nam, ái nữ của soạn giả không đúng và nghe thật đáng sợ !
Anh hùng nhất khoảnh (khoảnh: thời gian ngắn) Nói người tự cho mình là hơn cả mọi người trong một thời gian: Ở bến xe có tên lưu manh tự mình cho là anh hùng nhất khoảnh.
Chữ “khoảnh” trong câu thành ngữ gốc Hán này tự dạng là (), có nhiều nghĩa: khoảng ruộng 100 mẫu; thoáng chốc, khoảnh khắc... Ở đây, khoảnh (nghĩa đen = khoảng rộng100 mẫu) được hiểu là một vùng, một địa phận, khu vực (chỉ không gian) chứ không phải khoảnh khắc (chỉ thời gian) như GS lầm tưởng. Thành ngữ nói kẻ chỉ (dám) xưng hùng, xưng bá, làm mưa làm gió trong một khu vực nhất định. Cái “bến xe” mà tên lưu manh tự xưng anh hùng trong câu dẫn chứng của GS chính là“nhất khoảnh” (chỉ không gian) đấy thôi.
  
Ă
Ăn lông ở lỗ (ở lỗ tức là cởi truồng) Nói cuộc sống của người nguyên thuỷ.
Thực ra “lỗ” đây có nghĩa là hang hốc, hang động. Ý nói chuyện ăn và ở, chứ không nói chuyện ăn và mặc: ăn thì ăn sống nuốt tươi (còn cả lông của thịt thú rừng) ở thì chưa có nhà cửa mà ở lỗ (hang động).
Ăn ít ngon nhiều. Nói một món ăn chỉ cần ăn ít cũng đã thấy ngon: món tôm này ăn ít ngon nhiều.
Sai sót này cũng thuộc dạng được “copy” từ cuốn Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam sang mà chúng tôi đã nói đến trong bài “Những sai lầm mang tính hệ thống của Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”.
Â
Âm phủ (âm: chết; phủ: dinh thự) Chỗ người chết ở theo mê tín.
Sai ! Ở đây "âm"  thế giới của người chết chứ không phải “chết”, “phủ” là làcõi chứ không phải “dinh thự”.
Âm sắc (âm: tiếng; sắc: màu) Tính chất khác nhau giữa hai âm cùng độ cao và độ to hơn: Âm sắc của hai nhạc cụ khác nhau.
Thực ra “sắc” đây nghĩa là sắc thái, tính chất chứ không phải là “màu”, cho dù hai nghĩa đều xuất phát từ chữ sắc có cùng tự dạng là ().
Âm vị (âm: tiếng; vị: nói) Đơn vị ngữ âm nhỏ nhất có tác dụng phân biệt ý nghĩa của từ.
Thực ra "vị" đây có nghĩa là đơn vị, tự dạng là () chứ không phải tự dạng vị() là nói (bảo). Chính soạn giả đã giảng “âm vị”  đơn vị ngữ âm nhỏ nhất...” cơ mà ?
Ân trạch (ân: ơn; trạch: ân huệ) Ơn huệ thấm nhuần (Ân trạch của Hồ Chủ tịch đối với nhân dân).
Thực ra “trạch” () đây là thấm ướt chứ không phải là "ân huệ". Thế nên Thiều Chửu mới giải thích “Ân trạch: làm sự lợi ích (ân đức thấm tới mọi người)” và Giáo sư mới giảng thành "Ơn huệ thấm nhuần" chứ ?
B
Bạch hổ. Con cọp trắng vẽ trong các tranh tôn giáo.
Giải thích như vậy là phiến diện. Bởi cọp trắng không chỉ xuất hiện trong tranh thờ mà nó còn là con vật có thật, sống hoang dã. Theo Bách khoa toàn thư mở Hổ trắng hay Bạch hổ  hổ với một gen lặn tạo ra những màu sắc nhạt. Một đặc tính di truyền làm cho các sọc của hổ rất nhạt; trắng”. Ấy là chưa nói việc soạn giả bỏ quên Bạch Hổ với tư cách địa danh nổi tiếng - một mỏ dầu lớn ngoài khơi thuộc vùng biển Vũng Tàu nước ta.
Bát dật (bát: tám; dật: yên vui) Lối múa xưa, có tám hàng, mỗi hàng tám người: Múa bát dật trong cung điện.
Đội múa có tới 64 người tham gia quả là vui thật. Mà có yên thì mới vui, mới bày đặt ra chuyện múa may...Nghe thật có lý ! Thế nhưng “dật” () ở đây không phải là “yên vui”mà có nghĩa là hàng. Không biết chữ "dật" với nghĩa "yên vui" có tự dạng như thế nào và soạn giả căn cứ vào sách nào ? Hán Việt tự điển của Thiều Chửu cho biết: "Dật  : Hàng dật. Trong lễ định vua Thiên tử được bắt sáu mươi tư người múa bài hát, mỗi hàng tám người gọi là múa bát dật". Chính soạn giả đã thừa nhận“bát dật”  Lối múa xưa, có támhàng, mỗi hàng tám người” đấy thôi.
Bắc thần (bắc: phương bắc; thần: tinh thần) Ngôi sao sáng nhất trong chùm sao tiểu hùng tinh, giúp người ta xác định hướng chính bắc.
Sai nghiêm trọng. Chữ thần () ở đây chỉ chung mặt trời, trăng, sao. Ví dụ “Vi chính dĩ đức, thí như Bắc thần, cư kỳ sở nhi chúng tinh củng chi:為政以德,譬如北辰,居其所而眾星拱.Nghĩalà: Dùng đạo đức để giải quyết việc nước thì cũng ví như ngôi sao Bắc cực, ở yên một chỗ mà các ngôi sao khác đều chầu về (Luận ngữ - Vi chính). Chữ thần () này khi đọc là thìn lại có nghĩa là rồng - chi thứ năm trongthập nhị chi. Còn chữ thần trong tinh thần có tự dạng là (), không liên quan gì đếnbắc thần (北辰). Ở đây chữ thần () phải có nghĩa là trăng sao thì “bắc thần” mới nghĩa là "ngôi sao sáng nhất" thuộc chùm tiểu hùng tinh ở phía Bắc như chính GS Nguyễn Lân đã giảng chứ ? Nếu "thần"  “tinh thần” thì "bắc thần" lại nghĩa là "tinh thần phương Bắc" hay phương nào đó rồi !
Bất chắc. Không chắc nhưng có thể cũng sẽ diễn ra:Phòng khi bất chắc dụng binh (Tú-mỡ)
Người Việt chỉ nói không chắc chứ không dùng kết hợp từ: bất (không) + chắc (chắc chắn) = không chắc. Hơn nữa, soạn giả đã lẫn lộn giữa bất chắc (từ do tự GS Nguyễn Lân nghĩ ra) có nghĩa không chắc  bất trắc với nghĩa không lường đượctrong câu thơ của Tú Mỡ. Sai sót này xuất phát từ lỗi phát âm không phân biệt “ch” “tr” dẫn đến lỗi chính tả, và cuối cùng là lỗi từ vựng của chính người làm từ điển.
Bón đón đòng. Bón phân cho lúa khi sắp trổ bông: Kịp thời bón đón đòng nên năng suất cao.
Đã gọi là “bón đón đòng” có nghĩa phải bón khi lúa mới bắt đầu giai đoạn hình thành đòng chứ ? Sao lại bón vào lúc lúa sắp trổ bông ?
Bong bong. Tả tiếng kêu nhỏ và thanh: Sóng dồn mặt nước vỗ bong bong (HXHương)
Câu thơ của Hồ Xuân Hương mà GS trích dẫn ở trong bài “Kẽm Trống”: “Gió đập cành cây khua lắc cắc, Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”. Thơ Hồ Xuân Hương thường có nhiều dị bản. Tuy nhiên trong trường hợp này GS Nguyễn Lân đã trích dẫn sai: “vỗ long bong” thành “vỗ bong bong”. Ở câu trên là “khua lắc cắc” chứ đâu phải “khua cắc cắc” ? Hơn nữa phải là từ “long bong” mới tinh tế và phù hợp với âm thanh rất khó tả của nước dội vào Kẽm Trống. Nó khác hẳn với tiếng kêu "bong bong" khô cứng phát ra từ chiếc trống bỏi (muỗi).
Bồ đề (bồ: tên cây; đề: nêu lên) (Chữ Phạn bodhi có nghĩa là giác ngộ, đồng thời chỉ cây bồ đề  mà Thích Ca ngồi dưới gốc trước khi giác ngộ) đạo Phật.
Đây chỉ là từ phiên âm (từ chữ Phạn bodhi như chính soạn giả đã thừa nhận). Do đó “bồ"  "đề” khi tách ra tuy có chữ mà không có nghĩa. Việc giải nghĩa tách riêng từng từ trong hai từ này là việc làm...vô nghĩa.
C
Cá mè. (...) Phú ông xin đổi một xâu cá mè (ca dao)
Trích dẫn sai. Ca dao nói Phú ông xin đổi ao sâu cá mè, không phải “một xâu cá mè”. Cái "ao sâu" nuôi thả đầy cá mè xưa kia quý giá lắm (cũng như trâu bò, gỗ lim...trong câu ca dao vậy). Nếu chỉ là "một xâu cá mè" như GS viết thì Bờm đâu đến nỗi “bờm” lắm đâu ?
Cá ngựa. Loài cá biển nhỏ, đầu dài, lưng cong, đuôi nhỏ.
Có một đặc điểm rất quan trọng làm nên tên gọi của con cá ngựa không được GS đề cập: đầu giống đầu ngựa. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) mô tả như sau: “Cá biển, đầu giống đầu ngựa, thân dài, nhiều đốt, đuôi thon nhỏ và cong, có thể dùng làm thuốc”. Và thực tế (cũng như Hoàng Phê đã mô tả), phần cong của con cá ngựa là đuôi chứ không phải "lưng cong" (như GS Nguyễn Lân viết). Ngoài ra, so với Hoàng Phê, “cá ngựa” của GS Nguyễn Lân thiếu hẳn 2 nghĩa thông dụng: “Cá ngựa. Đánh cuộc ăn tiền trong các cuộc đua ngựa”  “Cá ngựa. Trò chơi súc sắc tính điểm để chạy thi quân ngựa gỗ. Chơi cá ngựa”.
Cá nóc. Cá nước ngọt thân tròn và ngắn.Cá nóc đuổi bắt cá con.
Sai nghiêm trọng. Cá nóc là cá nước mặn (cá biển) chứ không phải cá nước ngọt.Từ điển Bách khoa nông nghiệp cho biết "Cá nóc (Tetraodontiformes) bộ cá xương, chủ yếu sống gần bờ biển nhiệt đới và cận nhiệt đới". Mặt khác từ điển thiếu một thông tin quan trọng và bổ ích: cá nóc rất độc, có thể gây chết người khi ăn. Nếu am hiểu, người làm từ điển có thể thay thế ví dụ vô bổ "Cá nóc đuổi bắt cá con" bằng ví dụ: Ăn cá nóc có thể bị ngộc độc gây chết người. Qua đó, người sử dụng từ điển có thêm thông tin cơ bản, hữu ích về loài cá "giết người" này.
Cao lương mỹ vị (mĩ: đẹp; vị: hương vị)
“Mỹ” ở đây không phải là đẹp mà là ngon. Như “mỹ tửu” = rượu ngon. Trong bài thơ “Nhị vật” nói về việc bỏ thuốc lá và rượu, Bác Hồ viết: “Mộng lý hấp yên, ngậtmỹ tửu, Tỉnh lai cánh phấn chấn tinh thần” (Trong mơ thấy hút thuốc lá, uống rượu ngon, Tỉnh dậy càng thêm phấn chấn tinh thần).“Mỹ tửu” ở đây chính là rượu ngon.
 Cao minh (minh: sáng) Sáng suốt hơn người.
Chính xác hơn, “cao minh”  người có học rộng.
Cầm cương nảy mực (Cầm cương ngựa và nảy mực lên mặt gỗ để cưa). Điều khiển và chỉ dẫn những người dưới quyền làm theo:Trong những năm Hồ Chủ tịch cầm cương nảy mực.
Nhầm lẫn. Cầm cân chứ không phải “cầm cương”. Có lẽ GS cho rằng người cầm cương điều khiển để con ngựa rẽ theo ý muốn, còn người nảy mực nảy lên mặt gỗ để chỉ dẫn thợ mộc cứ thế làm theo ? Thế nhưng người ta dùng chiếc cân để so sánh với công lý, và nảy mực tàu được ví với cách làm thẳng thắn, khách quan, không thiên, không lệch (có câu Thẳng mực tàu làm đau lòng gỗ là vậy). Hai vế của thành ngữ đều nói về sự thẳng thắn, công bằng, không thiên, không lệch, chứ không phải nói về sự dẫn đường chỉ lối. Cũng nên lưu ý soạn giả: người ta chỉ nảy mực lên mặt gỗ để xẻ(dọc) cho thẳng. Còn "cưa" (ngang) không ai nảy mực làm gì.
Câu lạc bộ (Câu: đều; lạc: vui; bộ: bộ phận - Do từ Anh club phiên âm ra tiếng Trung Quốc.
Chiêu mộ1 (Chiêu: sáng; mộ buổi chiều) sáng và chiều: Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng (HXHương).
Viết sai chính tả “triêu” thành “chiêu”. Chữ “triêu” () mới có nghĩa là buổi sáng. Còn “chiêu” () lại có nghĩa là vời, vẫy, tuyển mộ. Chiêu () mới chính là chữ có nghĩa như GS đã giảng trong mục Chiêu mộ2 (Chiêu: vời tới; mộ: cầu tìm).Tuy nhiên, việc đặt chiêu mộ1  chiêu mộ2 là sai.Vì cách trình bày này chỉ đúng khi cảtriêu  mộ đều là những cặp từ cùng tự dạng, đồng âm nhưng dị nghĩa. Cuối cùng và tất nhiên, phải trả lại cho câu thơ của Hồ Xuân Hương là "Ba hồi triêu mộ..."
Choe choét Nói tiếng cười không nghiêm chỉnh:Mấy cô thiếu nữ cười đùa choe choét.
Người ta không dùng từ “choe choét” để ví với tiếng cười của bất cứ ai, ở bất cứ cấp độ nào. GS nhầm với kiểu cười toe toét chăng ?
Chơi gái. Có quan hệ sinh lý với phụ nữ (thông tục): Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến chuyện chơi gái mà thôi.
 “Gái” ở đây không thể hiểu là “phụ nữ” nói chung mà là hạng gái điếm, kỹ nữ(mà gần đây còn gọi bớp, ca ve, gái gọi, gái bao, v.v...) Còn “quan hệ sinh lý” là nói nhu cầu chính đáng của đời sống tình dục và hàm chứa hoạt động duy trì nòi giống của con người; trong khi từ “chơi gái” lại nói về kiểu chơi bời trác táng, thiên về trải nghiệm nhục dục, thỏa mãn xác thịt, không được xem là tình dục có ý thức của con người. Chính câu ví dụ về cách dùng từ “chơi gái” của Giáo sư: “Hắn có học hành gì đâu, chỉ nghĩ đến chuyện chơi gái mà thôi” đã nói lên cái nghĩa chẳng tốt đẹp gì của từ này. Kẻ đi “chơi gái” thì phải có “gái chơi”. Thế nên, gái điếm, kỹ nữ còn được gọi là “gái làng chơi”là vậy.
Chu niên (H chu: đầy đủ; niên: năm) Đủ số năm đã qua:Kỷ niệm đệ ngũ chuniên ngày giải phóng.
Chu () không phải là “đầy đủ” mà là tròn.Chu niên (周年)nghĩa là năm tròn, năm chẵn. Ví dụ thập lục chu niên = tròn 60 năm. Hoặc ngũ chu niên = tròn 5 năm (cách tính năm đủ ngày, đủ tháng). Ví dụ năm 2010 Việt Nam - Trung Quốc kỳ niệm tròn 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao, dòng chữ bằng Trung văn viết (tham khảo tư liệu ảnh trên VOV): 慶祝越-中建交六十周年 Khánh chúc Việt - Trung kiến giao lục thập chu niên (18/01/1950 - 18/01/2010).  Nghĩa là: Chúc mừng Việt-Trung tròn 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Còn khi nói đệ thập lục niên =năm thứ 60 tức mới chỉ bước sang năm 2010 chứ chưa tròn (chưa đến ngày 18/01/2010). Không ai đã “đệ” rồi còn dùng “chu”. Giống như tròn 10 tuổi khác vớituổi thứ 10. Và không ai nói tròn thứ 10 tuổi.
Chung kiếp (chung: cuối cùng; kiếp: thời vận) Cuối đời: đến chung kiếp vẫn còn giữ tròn được nhân phẩm.
GS lại phát âm sai dẫn đến viết sai chính tả và đưa ra một kết hợp từ hoàn toàn xa lạ và mâu thuẫn. Nếu "kiếp" = "thời vận" như cách giảng của soạn giả thì "chung kiếp"phải hiểu là thời vận cuối cùng, sao lại có nghĩa là "cuối đời" ? Mặt khác, chỉ có khái niệm trung kiếp (中劫), không có “chung kiếp” (vần tr, không phải vần ch).“Kiếp” ở đây không phải là "thời vận" mà là số kiếp, đời kiếp, tiếng Phạm là kiếp ba ( ). Theo Phật học từ điển (Đoàn Trung còn): "Trung kiếp: Thường thì kêu kiếp, tức là trung kiếp (kiếp vừa vừa). Một trung kiếp có 20 tiểu kiếp, tính ra có 336.000.000 năm".
Chung lưng đấu cật (Cật là chỗ thắt lưng)
Giáo sư sai rồi ! Cật là toàn bộ phía sau lưng chứ không phải là "thắt lưng".
Chung thân (chung: trọn vẹn; thân: thân mình) Suốt đời.
Chữ thân ()có nhiều nghĩa như: thân mình, bản thân, gốc cây, tuổi, đời... Ở đây, thân không phải là “thân mình” mà là đời. "Chung thân"  là hết đời, như “tiền thân 前身 đời trước” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu).
Chuyên đề (đề: đưa ra)
Nhầm lẫn. Chữ đề trong chuyên đề (專題)là đề mục, luận đề chứ không phải đề nghĩa là “đưa ra”. Chữ đề này có bộ hiệt () tự dạng là (-đề). Còn chữ đề nghĩa là“đưa ra” có bộ thủ () tự dạng là ().
 Chuyên gia (gia: nhà)
Không đúng ! Mặc dù đều có tự dạng là ,nhưng chữ gia trong chuyên gia (專家)lại không có nghĩa là nhà. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải nghĩa thứ 4 của chữ gia: “Có cái học vấn giỏi riêng về một môn gọi là gia. Như văn học gia 文學家, nhà văn học, chính trị gia 政治家 nhà chính trị, v.v...” Như vậy “gia” ở đây được hiểu là người (có học vấn, tài năng chuyên sâu).
Chuyển khẩu (...) Sang nước khác:nhiều người Việt Nam đã chuyển khẩu từ Pháp về nước.
Thật khó tin cách giải nghĩa sai hoàn toàn này lại nằm trong một cuốn từ điển có tên Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Thứ nhất, ta vẫn nói chuyển khẩu từ địa bàn này sang địa bàn khác, từ tỉnh này này sang tỉnh khác mà không cần phải “sang nước khác”mới gọi là “chuyển khẩu”. Thứ hai, nhập khẩu hay chuyển khẩu là cách quản lý hành chính nội địa của riêng Việt Nam, chỉ áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam.Theo Bách khoa toàn thư mở: Hệ thống hộ khẩu hiện nay chỉ tồn tại ở 3 nước: Trung Quốc, Bắc Triều Tiên  Việt Nam. Tuy nhiên cách quản lý, các chế độ liên quan đến hộ khẩu của mỗi nước khác nhau. Nếu có việc đi lại trong phạm vi ba nước nói trên cũng không thể gọi là chuyển khẩu được.Việc “đi sang nước khác” được gọi là xuất cảnh,nhập cảnh (cảnh  đây có nghĩa  biên giới, bờ cõi). Việc xuất cảnh, nhập cảnh phải đáp ứng một số thủ tục hải quan theo quy định giữa hai nhà nước. Ví dụ của Giáo sư:“nhiều người Việt Nam đã chuyển khẩu từ Pháp về nước” có lẽ ý chỉ Việt kiều Pháp hồi hương và sinh sống lâu dài ở Việt Nam chăng ? Để làm được việc này, Việt kiều sẽ thực hiện một số thủ tục theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhưng dứt khoát không thể gọi là “chuyển khẩu”.
Cử tọa (cử: cất lên; tọa: ngồi) Tất cả những người dự một buổi họp:Lời tuyên bố đó khiến cử tọa vỗ tay như pháo nổ.
Ở đây Giáo sư giảng sai nghĩa của cả hai từ "cử"  "tọa". Cho dù đều có tự dạng là, nhưng chữ “cử” trong cử tọa nghĩa là hết thảy, tất cả chứ không phải là “cất lên”. Ví như cử quốc = cả nước (Hán Việt tự điển - Thiều Chửu) Hán Việt tự điển-Trần Văn Chánh giải nghĩa chữ "cử": "Cả, khắp, tất cả đều, mọi, hết thảy mọi người: 舉座 Tất cả những người dự họp; 舉國歡騰 Khắp nước tưng bừng". Thứ hai, chữ "tọa" () đây là chỗ ngồi chứ không phải chữ "tọa" () là "ngồi".
Cước sắc (cước: cuối cùng; sắc: lệnh vua). Phẩm hàm (cũ) Người có cước sắc ở trong làng.
Sai ! Cước sắc (腳色) có nghĩa là “Nhân vật, vai (trong tuồng kịch, phim ảnh)”(Hán Việt tự điển-Trần Văn Chánh). Soạn giả nhầm với từ chức sắc chăng ?
Cười đứt ruột Cười nhiều quá, không thể nhịn được.
Cười rũ ra, cười bò ra cũng có thể gọi là "cười nhiều quá, không thể nhịn được" chứ ? Chính xác "cười đứt ruột" phải được giảng là: cười đến mức đau cả bụng, ruột thắt lại từng cơn, tưởng có thể “đứt” ruột đi được.
D
Dáng vóc. Thân hình khỏe mạnh.
Sai ! "Dáng vóc” là chỉ ngoại hình cao thấp, gầy, béo. Ai cũng có dáng vóc của người đó, không cứ gì người khỏe mạnh.
Dao sắc chẳng chặt được chuôi. ý nói: dù sao cũng không thể làm hại người thân thích với mình.
Sai ! Cái chuôi là bộ phận của chính con dao chứ không phải là “người thân thích”hay họ hàng của nó. Theo nghĩa đen: con dao dù sắc đến mấy cũng không thể chặt, gọt được cái chuôi của chính nó. Nghĩa bóng: người tài giỏi về phương thuật nào đó thường không tự áp dụng cho chính mình được. Ví như anh thợ cắt tóc chẳng thể cắt cho mình. Bác sĩ giỏi thường không chữa bệnh được cho chính mình.
Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông. Việc khó khăn thì hiểu được, việc dễ dàng thì không lường được.
Phải hiểu “dễ” ở đây không phải “dễ dàng” (ngược lại với khó) mà nghĩa là “liệu có thể” “khó có thể”, “chưa chắc”. Truyện Kiều: “Một người dễ có mấy thân”, “Đàn bà dễ có mấy tay” Đào Duy Anh giải thích nghĩa chữ “dễ” trong văn cảnh này là“Chẳng dễ, khó có thể, khó lòng, có dễ đâu”. Ở đây “dễ”  “khôn” trong câu Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông đều có nghĩa là “khó” cả: Dễ gì dò được rốn bể, khó có thể lường được đáy sông. Đây là lỗi mà GS Nguyễn Lân từng mắc (trong Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam) khi giảng câu “Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ mèo” Dù là kẻ thù nguy hiểm thế nào nếu mình có mưu mẹo, có phương tiện thì mình cũng thắng. Trong khi câu tục ngữ phải được hiểu nghĩa đen là: Dù nanh có sắc nhưng chuột cũng khó có thể cắn được cổ mèo.
Đ
Đắc ý (ý: ý nghĩa).
Sai ! “ý” ở đây là ý nguyện.“Đắc ý” là được như ý nguyện chứ không phải được như ý nghĩa.
Đăng khoa (đăng: ghi tên; khoa: khoa cử).
Kế thế đăng khoa (đăng: trèo lên).
Thực ra chữ “đăng” trong hai trường hợp trên đều có nghĩa giống nhau: ghi danh khoa cử. Việc giải nghĩa một “đăng”  ghi tên, một “đăng”  trèo lên trong hai mục từ trên là "tiền hậu bất nhất".
Đèn huỳnh quang (Huỳnh: đom đóm; quang: ánh sáng).
Chữ “huỳnh” đây chính là cách đọc trệch của chữ Hoàng do kiêng húy (chúa Nguyễn Hoàng). Chữ hoàng  (bộ hỏa) nghĩa là sáng sủa, sáng rực (ví dụ như huy hoàng  ). Còn chữ "huỳnh" (hoàng) với nghĩa đom đóm lại có tự dạng là  (bộ trùng). Không ai mượn hình ảnh ánh sáng lập lòe của con đom đóm để đặt tên cho bóng đèn điện cả. GS suy diễn ánh sáng trắng của đèn huỳnh quang giống ánh sángtrắng xanh của con đom đóm, nên cho rằng chữ “huỳnh” này có nghĩa là “đom đóm”chăng ?
Đĩ đực Từ dùng để chỉ bọn đàn ông lẳng lơ.
Ngày trước có từ “đĩ trai” chỉ loại đàn ông làm dáng, hay ve vãn đàn bà, con gái. Gần đây,“đĩ đực”chỉ hạng đàn ông đi bán dâm (mại dâm nam). Khái niệm “lẳng lơ” là “đặc quyền” dùng cho nữ giới.
Đoản văn. Thể văn gọn gàng.
Chữ "đoản" ở đây có nghĩa là ngắn. Chỉ có văn phong gọn gàng, câu văn gọn gàng. Không có “thể văn gọn gàng”. Nói chính xác đoản văn  thể loại văn ngắn.
Đón người cửa trước, rước người cửa sau. Nói kẻ chuyên nghề mại dâm: Công an săn lùng những kẻ đón người kẻ trước rước người kẻ sau.
Đúng ra là “Đưa người cửa trước, rước người cửa sau”. Nếu cửa trước cũngđón, cửa sau cũng rước thì “mại” sao cho kịp ?
Đông phong. Gió từ phương đông thổi tới.
“Đông phong” không đơn giản chỉ là “gió từ phương đông thổi tới” mà nó còn được hiểu là gió xuân, vì hướng đông ứng với hành mộc - mùa xuân. Gió đông cũng gọi là gió xuân. (Đào hoa y cựu tiếu đông phong - Thôi Hiệu). Giống như phương tây ứng với mùa thu nên gió tây còn được gọi là gió thu vậy.
Đồng điếu. Đồng nguyên chất màu đỏ.
Thực ra “đồng điếu” là đồng hợp kim chứ không phải đồng nguyên chất. Đây cũng là cái sai từng được GS Nguyễn Lân giảng trong “Từ điển thanh ngữ tục ngữ Việt Nam”.
Đồng ruộng. Nông thôn nói chung: Trở lại đồng ruộng xí nghiệp, công trường (PVĐồng)
“Nông thôn nói chung” có nghĩa rộng hơn“đồng ruộng” nhiều. Nó bao gồm cả cảnh quan, đường sá, ruộng đồng, làng mạc....Trong khi ruộng đồng chỉ là khu ruộng, mảnh đất phục vụ cho việc cấy cày, trồng trọt mà thôi. Giống như "xí nghiệp, công trường" không phải "thành thị nói chung" mà là nơi làm việc của công nhân.
Động cỡn. Nói phụ nữ có đòi hỏi về tình dục.
Thực ra từ “động cỡn” vốn nói biểu hiện sinh lý bị kích thích ở thời kỳ động dục (thường là) của trâu bò. Chúng hay có động tác nhảy cỡn lên hoặc nô dỡn rất bất thường với nhau. Sau đó, từ “động cỡn” dùng để mắng chửi vỗ mặt những người đàn bà có hành động, cử chỉ, lời nói  giống như hiểu hiện “động cỡn” vậy. Ví dụ: Đồ động cỡn ! ; Động cỡn hay sao mà...! Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê giải nghĩa động cỡn: “(loài thú) có những động tác biểu hiện đòi hỏi sinh lý bị kích thích mạnh khi có đòi hỏi về tính dục. Lợn động cỡn. Đồ động cỡn (tiếng mắng thông tục)”.
 Nếu như GS Nguyễn Lân giải nghĩa "động cỡn" như trên là đúng thì phụ nữ phát triển sinh lý bình thường ai mà không “động cỡn” ? Cũng giống như mục chữ cái C, từ“Chơi gái” được giải thích là “có quan hệ sinh lý với phụ nữ” thì đàn ông mấy người không “chơi gái” ?
Mức độ đúng sai của trường hợp này xin giành sự nhận xét cho độc giả là chị em phụ nữ.

E
Én Loài chim nhảy, đuôi chẻ…
Môi trường kiếm ăn của chim én là bầu trời. Chúng bay qua, bay lại chấp chới (như con thoi dệt vải) để bắt muỗi, côn trùng. Bởi vậy, chim én là loài chim bay, đậu cành, không đậu trên mặt đất (do đuôi dài, chân ngắn và mặt đất không phải môi trường kiếm ăn của én). Nói gì đến chuyện én là loài chim nhảy ?
Eo éo. Tiếng kêu, tiếng gọi từ xa.
Đúng ra là tiếng kêu, tiếng gọi nghe không rõ, vọng lại từ xa, gây cảm giác  khó chịu.
Ê
Ếch ngồi đáy giếng Than phiền là ở một vị trí không hiểu gì ở chung quanh: Tôi ở đây như ếch ngồi đánh giếng, hiểu sao được tình thế đổi thay.
Thực ra tục ngữ được dùng phổ biến với nghĩa: kẻ có hiểu biết hạn chế, nông cạn nhưng lại lầm tưởng ta đây thông thái.
Ếch vồ hoa dâm bụt (Ếch không ăn được hoa dân bụt) Chê kẻ làm việc hão huyền: Tin sao được cái kẻ ếch vồ hoa dâm bụt ấy.
Tục ngữ không có ý nói ếch ăn được hay không ăn được hoa dâm bụt. Mà hoa dâm bụt thường được trồng ở bờ ao. Khi hoa nở, ong bướm, côn trùng đến hút nhụy, ếch ta ngồi ngóng lên thèm thuồng, định thực hiện cú vồ ngoạn mục để đớp gọn con mồi. Ai dè lực bất tòng tâm, cú nhảy chỉ vồ trúng cái hoa dâm bụt mà thôi. Nghĩa bóng: chế giễu kẻ vụng về làm hỏng việc lớn.
G
Gà đồng. Từ dùng đùa để chỉ con ếch.
Con ếch có một số tên chữ như: thanh oa, thanh kê, thủy kê, điền kê. Từ “gà đồng” dịch từ chữ Hán điền kê 田雞 - tên gọi con ếch (hiện vẫn dùng phổ thông của người Trung Quốc).
Gà què ăn quẩn cối xay. Chê kẻ không có tài năng gì lại kiếm chuyện gây gổ với người chung quanh.
“Chê kẻ không có tài năng gì” thì đúng. Nhưng gán cho kẻ thất thế “an phận thủ thường” kia cái tội “kiếm chuyện, gây gổ với người chung quanh” quả là oan cho nó quá ! Có lẽ theo Giáo sư, cái chân què chính là bằng chứng về “tiền sự” kiếm chuyện gây gổ của con gà chăng ?
Gối vụ nói nhà nông làm lấn sang vụ sau, trong khi chưa xong hẳn vụ này.Nông dân phải gối vụ để tăng sản lượng.
Phải hiểu ngược lại: vụ sau gối vào vụ trước mới đúng. Nghĩa là khi vụ trước chưa xong thì đã triển khai vụ sau. Như chuẩn bị cây giống, phân bón, nhân lực để khi vụ trước vừa xong thì gối ngay vào. Ví như để trồng ngô đông trên đất hai lúa, người ta gieo sẵn hạt ngô vào bầu trước khi trồng tới hàng tuần. Đến vụ gặt mùa, thu hoạch lúa phía trước, cày ngay đất phía sau, rải phân bón đã chuẩn bị sẵn đầu bờ ruộng và đưa bầu ngô ra trồng (Sáng lúa, chiều ngô). Như thế cây ngô đông đã gối lên vụ trước được tới cả chục ngày (mà tục ngữ có câu “Hơn một ngày hay một đường”). Nếu nói vụ trước“lấn sang vụ sau” có nghĩa thời gian của vụ trước bị kéo dài, gây ảnh hưởng đến kế hoạch triển khai vụ sau, sao gọi là “gối vụ” được ?

H
Hành quyết. ( Quyết: phán xử).
Chuyện “phán xử” chỉ diễn ra ở pháp đình. Khi đã ra tới pháp trường với hai từ“hành quyết” rồi làm gì còn chuyện phán với xét nữa ? Thực ra chữ “quyết” ở đây có nghĩa là xử chém.“Hành quyết” là thực hiện việc xử chém.
Hiệp thương (hiệp: giúp đỡ; thương: bàn luận)
Chữ hiệp  cũng có nghĩa là giúp đỡ. Nhưng “hiệp” ở đây = hòa hợp mới đúng.Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: “Hiệp: Hoà hợp, như đồng tâm hiệp lực 同心協力, hiệp thương 協商 cùng bàn để định lấy một phép nhất định”.
Hiếu đạo (đạo: con đường)
Không đúng. Tuy cùng có tự dạng là  nhưng đạo trong "hiếu đạo" không thể chọn nghĩa là "con đường" mà phải là đạo lý.
Hiếu đễ (Hiếu: lòng hiếu; đễ: yêu quý anh em) Kính yêu cha mẹ và hòa thuận với anh em.
Thực ra “đễ” là cách ứng xử của người dưới đối với người trên (cụ thể là của em đối với anh) chứ không phải chỉ chung anh em với nhau. Xin trích dẫn “Đễ: Thuận, biết đạo xử với anh gọi là đễ” (Hán Việt tự điển-Thiều Chửu) ; “Đễ: kính mến anh, kính nhường anh, kính thuận (với người lớn hơn mình)” (Hán Việt từ điển-Trần Văn Chánh).
Hiệu phó (…phó: người giúp đỡ)
Không đúng ! Chữ “phó” ở đây có nghĩa là thứ, thứ hai, thứ nhì chứ không phải là"người giúp đỡ". Thế nên Thứ trưởng còn được gọi là Phó bộ trưởng (bên Trung Quốc). Chính Nguyễn Lân đã giải nghĩa chữ “trưởng” trong hiệu trưởng  “người đứng đầu” đấy thôi.
Hiệu suất (suất: cái làm chuẩn)
Thực ra “suất” = tỉ lệ, mức.
Hình lập phương (lập: đứng thẳng…)
Đúng ra là "lập" = toàn khối; Hán Việt tự điển của Thiều Chửu: "Lập : Ðứng thẳng (...)  Toàn khối, như lập phương 立方 vuông đứng, một vật gì vuông mà tính cả ngang dọc cao thấp gọi là lập phương". Như vậy, chữ "lập" có rất nhiều nghĩa. Thay vì nghĩa thứ nhất của "lập", Giáo sư phải chọn nghĩa thứ (7) của "lập" mới đúng.
Hôi nách. Nói nách có mùi khó ngửi vì thiếu vệ sinh.
Hôi nách là chứng bệnh do tính chất của tuyến mồ hôi. Y học cổ truyền cũng như Y học hiện đại đều cho rằng hôi nách có tính di truyền. Bởi vậy ngay cả khi vừa tắm rửa, vệ sinh sạch sẽ xong vẫn có mùi hôi như thường. Kết luận như GS Nguyễn Lân thật thiếu công bằng.
Huyết tộc đồng hôn. Chế độ hôn nhân trong thời nguyên thủy, buộc trai gái trong họ phải lấy nhau và không được lấy người ngoài.
Hôn nhân thời nguyên thủy là chế độ quần hôn. Còn chế độ trai gái trong họ lấy nhau lại gọi là hôn nhân nội tộc (như nhà Trần chẳng hạn)
I
Im như thóc đổ bồ. Người có thóc đổ bồ không muốn cho ai biết, sợ người ta vay mượn.
Lưu ý: đây là “Im như thóc đổ bồ” chứ không phải Im như đổ thóc vào bồ. Câu này một lần nữa soạn giả lại bê nguyên cái sai trong cuốn Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam (xuất bản 1989) để giải thích. “Im” ở đây không phải tả động tác đổ thóc vào bồ một cách nhẹ nhàng, kẻo có người (đang rình ở xó nhà hay bờ vách nhà mình chăng ? !) nghe tiếng rào rào của thóc chảy vào bồ rồi đến vay mượn như GS hiểu. Sự im lặng theo nghĩa đen này ám chỉ những hạt thóc đã ở yên  trong bồ, đã cất vào bồ, đưa vào trong kho, buồng kín rồi, không có gì xáo trộn nữa. Đó là sự im hơi, lặng tiếng ở một nơi kín đáo, không hề nhúc nhích. Còn có câu mang tính nhấn mạnh hơn “Câm như thóc” hoặc “Im như thóc trầm ba mùa”. Thóc “trầm ba mùa” là thóc không còn khả năng mọc mầm nữa, một sự im lặng tuyệt đối và mãi mãi.
   Ý câu thành ngữ muốn diễn đạt: Nói sự sợ sệt im thin thít, không nhúc nhích, không dám tỏ thái độ phản ứng trước một việc nào đó. Đó là cách ví von, sự mô tả giàu tính hình tượng của thành ngữ dân gian.
K
Khẩu trang (trang: tô điểm)
Thực ra “trang” ở đây là trang phục.
Khí tượng thủy văn (văn: vẻ ngoài)
Thực ra “văn” ở đây là những hiện tượng thiên nhiên.Nên có thiên văn, địa văn, thủy văn là vậy.
Khiếm thính. Không nghe được rõ vì có tật.
Thực ra “khiếm thính” là người bị điếc bẩm sinh (khiếm = thiếu; khiếm thính = thiếu bộ phận, chức năng thính giác). Những người này hoàn toàn không nghe thấy gì, dẫn đến bị câm điếc. Nếu “không nghe được rõ” thì đó là người bị lãng tai.
Không biết ất giáp là gì. Chẳng biết tí gì hết.
“Giáp” nghĩa là đứng đầu, “ất”  thứ hai.“Không biết giáp ất là gì” tức không biết trên dưới, phải trái, sau trước thế nào. Còn người ngu dốt nói chung mới là người “Chẳng biết tí gì hết”.
Khuyển. Con chó dùng với ý bông đùa.
Trước tiên “khuyển” là từ Hán Việt nghĩa là con chó. Còn bông đùa hay không còn tùy từng văn cảnh cụ thể.
 Kinh sư (sư: quản lĩnh)
Thực ra “sư” ở đây là nhiều, đông đúc chứ chẳng có quản lĩnh gì ở đây. Hán Việt tự điển của Thiều Chửu viết:  "Sư (): Nhiều, đông đúc, như chỗ đô hội trong nước gọi là kinh sư 京師 nghĩa là chỗ to rộng và đông người".
Kính thiên văn (văn: văn vẻ)
Như trên đã nói, “văn” ở đây có nghĩa là những hiện tượng thiên nhiên. Kính thiên văn là kính quan sát những hiện tượng thiên nhiên trên bầu trời (trăng sao, nhật thực, nguyệt thực…) Ở mục từ "Khí tượng thủy văn" soạn giả giải thích "văn"  "vẻ bề ngoài" đến mục "Kính thiên văn" cũng là "văn" này, nhưng lại được giải thích là"văn vẻ". Và cả hai cách giải thích đều không đúng.
Kính tiềm vọng (tiềm: ẩn giấu; vọng: trông ngóng).
GS đã chọn nghĩa sai cả hai từ “tiềm”  “vọng”. Chữ tiềm ()cũng có một nghĩa là ẩn giấu,(như khen cái đức hạnh của kẻ sĩ ở ẩn gọi là tiềm đức). Nhưng trong văn cảnh này nó lại có nghĩa là ngầm (tiềm thủy đĩnh 潛水艇 = tàu ngầm). Với chữvọng tuy có cùng tự dạng là (), nhưng “vọng” trong "kính tiềm vọng" không có nghĩa là trông ngóng mà là nhìn xa. Kính tiềm vọng là bộ phận rất quan trọng của tàu ngầm, giúp cho thủy thủ đoàn có thể nhìn thấy bên trên của mặt nước khi tàu ngầm hoạt động dưới nước.
L
Lai vãng (vãng: đi đến) Qua lại một nơi nào đó.
Ở đây có sự nhầm lẫn. “Vãng”  đi, đi qua, “lai” mới là đi lại, đi đến. Nên “lai vãng” mới có nghĩa là“qua lại” như GS đã giảng.
   Lành cho sạch, rách cho thơm
Đúng ra là Đói cho sạch, rách cho thơm. Đói mà giữ cho sạch mới khó.
Lãnh địa (lãnh: thống trị)
Lẫm liệt oai phong (phong: lề thói)
Tuy cùng có tự dạng là  nhưng thực ra “phong” ở đây là dáng dấp. Lẫm liệt oai phong là cái dáng dấp oai nghi lẫm liệt.
Lục cá nguyệt (cá: từng cái; nguyệt tháng) Sáu tháng một lần: Nộp báo cáo lục cá nguyệt.
“Lục cá nguyệt”  là sáu tháng chứ không phải“sáu tháng một lần”. Chữ trong lục cá nguyệt là số đếm = 6 tháng, nhằm phân biệt với lục nguyệt   tháng 6
Lụng thụng. Nói quần áo rộng quá.
Thực ra“lụng thụng” là nói quần áo vừa rộng, vừa dài mới đúng. Nếu chỉ là rộng thôi phải là “thùng thình” chứ không phải“lụng thụng”.
M
Má hồng không thuốc mà say. Chê kẻ đàn ông quá ham mê sắc đẹp.
Thực ra là nói cái má hồng (vẻ đẹp) của người con gái có thể làm say lòng người. Như “Sắc bất ba đào dị nịch nhân”(Sắc đẹp chẳng phải sóng lớn nhưng có thể nhấn chìm được người ta). Tức nói cái sức mạnh ghê gớm của sắc đẹp.
Màn hình. Bề mặt của đài truyền hình hoặc máy tính.
Phải hiểu ngược lại mới đúng: màn hình là bộ phận hiển thị hình hảnh (Trung văn gọi là hiển thị khí) của máy tính hoặc máy thu hình (chứ không phải "truyền hình"). Và nó không chỉ là “bề mặt” mà là một vật, một bộ phận (ngôn ngữ hàng ngày đôi khi màn hình được dùng để chỉ chung cái Ti-vi - máy thu hình)
Mật ít ruồi nhiều: nói tình trạng việc thì ít mà người xin làm lại nhiều.
Thực ra không chỉ nói chuyện xin việc mà là cách nói hình tượng chỉ chung tất cả những tình huống cầu vượt quá cung.
N
Nạ dòng lấy được trai tơ. Nói người phụ nữ có tuổi lấy được người chồng trẻ.
Nói đúng hơn phải là phụ nữ nhiều tuổi đã từng có chồng lại lấy được một chàngtrai trẻ chưa vợ mới chính xác. Vì "phụ nữ có tuổi" nhưng chưa có chồng thì vẫn không thể gọi là nạ dòng được mà xếp vào diện gái quá lứa, lỡ thì. Và trai tơ là trai chưa vợ chứ không đơn thuần là trẻ. Làm từ điển mà giải nghĩa đại khái kiểu này thì lẫn lộng lung tung hết.
Nghênh tiếp (tiếp: liền với nhau).
Sai ! Thực ra “tiếp” ở đây có nghĩa là tiếp đãi, đón tiếp.
Ngọc nữ (nữ: đàn bà)
Ngọc nữ thường được hiểu là tiên nữ. Từ nữ trong “ngọc nữ” phải hiểu là “con gái” không thể là “đàn bà”. Vua Lê Thánh tông có bài thơ Nôm vịnh núi Ngọc Nữ ở Thanh Hóa: “Phau phau da đá phơi màu phấn, Trinh tiết bền gan chẳng lấy chồng”. Ở mục vần T, từ thôn nữ GS Nguyễn Lân giải thích: “nữ: đàn bà. Người con gái ở nông thôn”.Thực ra, nữ trong “thôn nữ” ở đây cũng có nghĩa là: cô gái chứ không phải đàn bà. Như thế từ “thôn nữ” GS Nguyễn Lân mới giảng thành “người con gái ở nông thôn” được chứ ? Từ điển phải phân biệt được thế nào là đàn bà, thế nào là cô gái, con gái, phụ nữ...Sao có thể tùy tiện, lẫn lộn đàn bà với con gái, thiếu nữ với phụ nữ được ?
Ngồn ngộn­1. Rất nhiều:Tiền của ngồn ngộn. (Ng-hồng)
Ngồn ngộn­2. Nói người phụ nữ trắng và đẹp:Cô ta mới lớn lên trông ngồn ngộn.
Về mục Ngồn ngộn­1. thực ra, “ngồn ngộn” đây không chỉ là số lượng "rất nhiều" mà còn gợi cho ta hình dung về khối lượng (rất đầy-Ngồn ngộn sân phơi khoai giát nắng - Tố Hữu). Thế nên câu văn gợi tả của Nguyên Hồng “tiền của ngồn ngộn” =tiền của chất đống.
Thiết nghĩ, đàn ông khi sử dụng cuốn từ điển này nên cẩn thận khi có nhã ý dùng từ “ngồn ngộn” để ngợi khen người“phụ nữ trắng và đẹp” nào đó: Em (cô, chị) đẹp thật, trông ngồn ngộn !”. Trong văn cảnh này các “đấng mày râu” sẽ bị chị em phụ nữ quy ngay cho cái tội “có máu dê” chứ chẳng chơi !
Ngự lãm Nói vua xem (cũ) Đoàn văn công vào cung biểu diễn để nhà vua ngự lãm.
Quả ngự lãm là nói vua xem. Nhưng vua mà ngự lãm văn công biểu diễn thì đây là hiện tượng “tân cổ giao duyên” rất khó chấp nhận trong ngôn ngữ. Văn công là khái niệm hoàn toàn mới, chỉ những đoàn, đội văn nghệ đi biểu diễn lưu động phục vụ công chúng. Vua nào mà tài giỏi tới mức sống dậy để có thể xem được văn công biểu diễn ?
Nhan sắc (Nhan: mặt; sắc: màu - Nghĩa đen: màu mặt) Vẻ đẹp của phụ nữ.
Soạn giả tiếp tục bị nhầm lẫn bởi hiện tượng đồng tự, dị nghĩa. Chữ sắc đúng là có  một nghĩa là màu sắc. Thế nhưng trong văn cảnh này sắc lại được hiểu là sắc đẹp.Thiều Chửu giải nghĩa: “Sắc: Sắc đẹp, gái đẹp. Như hiếu sắc 好色 thích gái đẹp”.
O
Oanh yến (oanh: chim oanh, yến: chim yến) Những người phụ nữ làm nghề ca hát trong chế độ cũ:Vô tình chi bấy, oanh yến kia hát gió ngân trăng (PhBChâu); Lọ là oanh yến hẹn hò (BCKV).
   Cách giải thích này hoàn toàn phỏng đoán theo ý soạn giả. Theo Từ điển Truyện Kiều - Đào Duy Anh, yến anh (oanh) hoặc oanh yến có hai nghĩa: 1.“Tỷ dụ người đi chơi lũ lượt, tấp nập, như chim én, chim oanh bay từng đàn tíu tít trong tiết xuân”. (Truyện Kiều: Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chời xuân - Chính là nghĩa “oanh yến” trong ví dụ thứ nhất của GS Nguyễn Lân). 2.“Tỷ dụ chơi bời hoa nguyệt”. (Mây mưa đánh đổ đá vàng, Quá chiều nên đã chán chườngyến anh - Kiều - Chính là nghĩa “oanh yến” trong ví dụ thứ hai của GS Nguyễn Lân). Điều đáng chú ý là đến mục từ Yến oanh phần cuối sách lại được soạn giả giải nghĩa khác hẳn: (Yến: chim yến; oanh: chim hoàng oanh: hai loại chim này hay bay từng đôi, trống và mái) Tình trai gái :Dám đâu học thói yến oanh, Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương (BCKN).
Ô
Ô nhục (ô: vẩn đục)
Ô trọc (ô: vẩn đục)
Chính xác chữ “ô” (洿)nghĩa là nước tù, nước đọng, nhơ bẩn.“Vẩn đục” không đồng nghĩa với “nhơ bẩn”.
Ống điếu. Đồ dùng để nhét thuốc lá vào rồi đốt mà hút.
Vật GS mô tả thực ra là cái tẩu hút thuốc. Còn “ống điếu” lại chỉ vật dụng có thêm cái nõ dùng để hút thuốc lào.
Ơ
Ở ẩn. Sống ở một nơi hẻo lánh để không tiếp xúc với xã hội.
Thực ra ở ẩn chính xác phải là sống lánh đời, thể hiện chí khí hoặc giữ gìn khí tiết của nhà Nho hay bậc hiền nhân ngày xưa.
Ời ời Nói tiếng gọi không dứt: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
Thực ra "tiếng gọi không dứt" thì có thể chỉ nhiều kiểu tiếng gọi. Còn ời ời phải là tiếng gọi với, vang vọng từ một nơi xa, nghe gấp gáp, bức thiết mà không rõ lời. Trong ngôn ngữ thường ngày, từ này ít dùng. Dường như nó chỉ xuất hiện và thực sự đắttrong câu ca dao làm ví dụ của soạn giả.
P
Phi nghĩa (nghĩa: điều phải làm)
Thực ra “nghĩa” đây là nghĩa lý. Còn “điều phải làm” thì nhiều không sao kể xiết.
Q
Quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng. Ý nói: Bắt người vô tội chịu hình phạt thay kẻ có tội: Trong chế độ thực dân, thường có chuyện quạ ăn dưa bắt cò dãi nắng.
   Thực ra, quạ là giống chim đa thực. Ngoài gà con, xác thối...chúng còn rất thích ăn các thứ quả như mít, dưa hấu...Tục ngữ có câu “Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa”. Thời tiết nắng nhiều khiến quạ được chén những quả dưa ngọt lành. Trong khi đó, cò không ăn được dưa (loài chim này chỉ ăn tôm tép, cá con, côn trùng…) lại phải chịu chung đặc điểm thời tiết nắng nóng chang chang ấy (đôi khi làm cạn nước, chết hết cá tôm, ảnh hưởng đến môi trường kiếm ăn của cò). Ý thành ngữ muốn nói: Hoàn cảnh thuận lợi của người này đôi khi lại chính là khó khăn vất vả đối với người kia. Cách giải thích: “Bắt người vô tội chịu hình phạt thay kẻ có tội” của GS Nguyễn Lân suy diễn quá xa nghĩa bóng của thành ngữ.
Quý hồ tinh bất quý hồ đa (tinh: trong trẻo).
Gs lại mắc lỗi đồng âm, dị tự, dị nghĩa. Chữ “tinh” mà soạn giả chú nghĩa “trong trẻo” có tự dạng () và nghĩa chính xác là trong sáng, được dùng trong kết hợp từthủy tinh (水晶).Còn chữ tinh()trong tinh lọc, tinh tuyển mới đúng là chữ được dùng trong câu tục ngữ Quý hồ tinh bất quý hồ đa.Thiều Chửu:“Vật gì đã lọc bỏ hết chất xấu rồi đều gọi là tinh”.
R
Rau muống. Thứ rau phổ biến nhất ở nước ta, cùng họ với khoai lang trồng ở ao hoặc ở trên cạn.
Không biết căn cứ vào đâu mà GS lại cho rau muống “cùng họ với khoai lang”.Bách khoa toàn thư mở - Wikipedia Rau muống (danh pháp hai phầnIpomoea aquatica) là một loài thực vật nhiệt đới bán thủy sinh thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae), là một loại rau ăn lá”.
Rắn giáo. rắn đầu nhọn, mình dài: Thằn lằn, rắn giáo.
Cái sai này xuất phát từ chỗ phát âm không phân biệt được Gi  R, dẫn đến viết sai chính tả rồi suy diễn. Ở nước ta không có loại rắn nào tên là rắn giáo, mà chỉ córắn ráo.
Rắn cạp nia. Rắn độc, mình có những vằn tròn đen và trắng liên tiếp nhau.
Từ “vằn” phải thay bằng khoang, từ “liên tiếp” phải thay bằng xen kẽ: mình có những khoang tròn đen, trắng xen kẽ nhau.
S
Sáng kiến (sáng: bắt đầu, gây dựng nên; kiến: thấy)
Thực ra sáng ở đây nghĩa là mới. Sáng kiến là cách làm mới tìm ra.
Sắc bất ba đào dị nịch nhân ((ba: sóng; đào: dậy sóng)
Chính xác: Ba = sóng nhỏ; đào = sóng lớn.
Sơ cứng. Không linh hoạt: Giải quyết vấn đề một cách sơ cứng.
Ở đây soạn giả viết sai chính tả. Tiếng Việt chỉ có từ xơ cứng, không có “sơ cứng”.
T
Tán phó mát. Theo bài ngụ ngôn “Con quạ và con cáo của La Fontaine con cáo tán con quạ để nói bỏ rơi miếng phó-mát) Có nghĩa ngồi với nhau nói những chuyện bâng quơ.
“Con quạ và con cáo” là câu chuyện ngụ ngôn viết bằng thơ của La Fontainechứ không phải là một bài thơ. Dùng từ “bài ngụ ngôn” là không đúng. Hơn nữa, câu này GS giải thích mâu thuẫn với chính ý nghĩa và nguồn gốc của câu thành ngữ đưa ra. Một buổi sáng trong rừng, cáo thức dậy với cái bụng đói meo. Khi nhìn thấy quạ cắp một miếng phó-mát, nó nghĩ rằng không phải tìm bữa sáng ở đâu xa nữa, bèn dùng lời tán tỉnh quạ rằng: với một bộ lông bóng mượt như vậy, chắc hẳn tiếng hót của quạ sẽ  hay lắm ! Quạ bị lừa, đắc ý há mỏ cất tiếng kêu để rơi miếng phó-mát xuống đất, biếu không miếng mồi ngon cho cáo ranh mãnh. Như vậy, “Tán phó-mát” không phải là“những chuyện bâng quơ” vô bổ, không có chủ đề, mục đích, mà là những lời tán tỉnh, tâng bốc lừa phỉnh mới đúng.
Tế độ chúng sinh (chúng: nhiều; sinh: cuộc sống) Nói Phật cứu giúp mọi sinh vật ra khỏi bể khổ.
Thực ra “sinh” ở đây phải hiểu là sinh vật, muôn loài, không phải nghĩa là "cuộc sống".
   Thóc lép Nói hạt thóc nhỏ hơn bình thường. Năm ấy hạn hán nên nhiều thóc lép.
   Giải nghĩa như thế là chưa nhìn thấy hạt thóc lép bao giờ. Và cái cơ bản thóc lép khác thóc mẩy ở bên trong chứ không phải bên ngoài. Thóc lép có hai loại. Loại 1: lép lửng (còn gọi lúa trửng hay lúa kẹ) chứa rất ít tinh bột, có khi chỉ bằng 1/3 thóc mẩy.Loại 2: lép hoàn toàn, chỉ có vỏ mà không có chất dinh dưỡng. Như thế, “hạt thóc nhỏ hơn bình thường” không phải là thuộc tính của thóc lép.
Thống lĩnh (Thống: chỉ huy; lĩnh: trông coi) Chỉ huy toàn thể quân đội.
Thực ra “thống” ở đây là thâu tóm; “lĩnh” nghĩa là đứng đầu; thống lĩnh là người đứng đầu thâu tóm tất cả.
Thủy tạ (tạ: ngôi nhà xinh) Ngôi nhà xây trên mặt nước để làm nơi giải trí:Nhà thủy tạ ở Hồ Tây.
Chữ “tạ” theo Thiều Chửu: “Sàn, nhà tập võ, cái đài có nhà ở gọi là tạ”. Như vậy, chữ tạ trong thủy tạ có nghĩa là “cái đài có nhà ở”. Có lẽ soạn giả ngắm nhà thủy tạ ở Hồ Tây thấy nó xinh xắn quá nên tự cho rằng chữ tạ ở đây phải có nghĩa là ngôi nhà xinh.
Tức như bò đá (Thực ra bò không thể đá được) Bực mình vì một chuyện rất vô lý.
Chưa nhìn thấy bò đá bao giờ không có nghĩa "bò không thể đá được". Tuy không ra được những cú song phi uy lực, dứt khoát như ngựa, nhưng bò vẫn đá theo kiểu của bò. Đó là kiểu đá hất một chân ra phía sau. Bình thường, bò là con vật nhút nhát, hiền lành, chậm chạp đến độ bị coi “ngu như bò”. Thế nên người ta có tâm lý xem thường, ít để ý đến nó. Tuy nhiên, đôi khi đi ngang qua hoặc đứng phía sau đuôi bò (do bị giật mình) nó vẫn bất ngờ “ra đòn” đánh “nhằng” một phát. Người bị bò đá đã đau lại bị một phen giật mình, hồn vía lên mây. Định thần lại mới hóa ra nguyên nhân chính từ “kẻ ngu đần” kia. Bực tức, mà chẳng làm gì được, thậm chí có điên tiết lên quất cho nó mấy roi cũng đến thế. Tức như bò đá là như vậy. Ý nói: bỗng dưng gặp phải chuyện bị ức chế, bực mình, rất tức mà chẳng làm gì được.
U
Uyên ương (Loài ngỗng trời, uyên là ngỗng đực, ương là ngỗng cái, tục truyền hai con bao giờ cũng đi với nhau). Vợ chồng yêu thương nhau.
Không đúng. Uyên ương thuộc loài vịt chứ không phải loài ngỗng. Theo Bách khoa toàn thư mở: Uyên ương (danh pháp hai phầnAix galericulata) là một loài vịt đậu cây kích thước trung bình, có quan hệ họ hàng gần gũi với vịt Carolina ở Bắc Mỹ”. Vì uyên ương là một loài vịt, chúng có tập tính, môi trường kiếm ăn giống nhau nên thành ngữ gốc Hán có câu: “Đả áp kinh uyên ương” - đánh con vịt lại sợ động chạm đến con uyên ương là vậy.

Ư
Ướt đẫm Nói mồ hôi thấm đầy vào quần áo: Tay mang khăn gói sang sông, Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo (ca dao).
Từ ướt đẫm không chỉ dùng riêng để “Nói mồ hôi thấm đầy vào quần áo”. Soạn giả mới giải nghĩa từ “ướt đẫm” trong văn cảnh cụ thể của  câu ca dao chứ chưa phải giải nghĩa từ vựng. Người ta vẫn viết và nói ướt đẫm mưa, ướt đẫm nước mắt, ướt đẫm sương v.v... Ví dụ: Tàu chuối ướt đẫm sương đêm. Nghĩa từ vựng phải là nghĩa tổng quát, bao hàm để từ đó người nói, người viết có thể vận dụng vào nhiều trường hợp khác theo cách mà từ điển đã chỉ dẫn. Từ ướt đẫm có thể được dùng trong các trường hợp chỉ ướt đều, ướt hết, ướt mà thấm.
V
Vịt xiêm Giống vịt to, người ta nói nhập từ Thái Lan. Trong sân nhà có đôi vịt xiêm rất lớn.
Thực ra, vịt xiêm là cách gọi tên con ngan của người miền Nam.
Vọng tộc (Vọng: trông xa; tộc:họ) Gia đình có danh tiếng lớn trong xã hội phong kiến.
Thực ra vọng ở đây không phải là “trông xa”. Thiều Chửu giảng nghĩa: “Có cái để cho người chiêm ngưỡng gọi là vọng, như danh vọng 名望, uy vọng 威望, v.v”. Chữ vọngtrong vọng tộc chính là theo nghĩa mà Thiều Chửu đã giảng.
Vồ lắm lại vật đau. Chê người lúc đầu đối xử rất tử tế, nhưng về sau vì chạm đến quyền lợi nên lại ăn ở tệ: Ông ấy mới ở ngoại quốc về thì bà ấy săn đón thế, nhưng rồi đây, vồ lắm lại vật đau cho mà xem.
Chính xác phải là “Vồ lắm vập đau” (không có chữ "lại"; chứ “vật” thay bằng chữ "vập"). Ở đây, dân gian chơi chữ “vồ” và “vập”. Ban đầu thì vồn vã, săn đón, vồ (vập) cho lắm vào, đến sau lại vập (đánh nhau) cho đau. Nếu viết "Vồ lắm lại vật đau" thì còn gì là chữ với nghĩa nữa !
Vợ đàn bà, nhà hướng nam. Câu này có vẻ ngớ ngẩn, nhưng chỉ muốn tỏ rằng nhà hướng nam thì tốt, theo lẽ tất nhiên như người vợ phải là đàn bà.
Không hiểu tục ngữ nói gì không có nghĩa tục ngữ "ngớ ngẩn". Đàn bà hay đàn ông cũng có năm bảy loại. Có khi đàn ông nhưng tướng mạo lại ẽo ợt, thiếu bản lĩnh, sống nhỏ mọn, bon chen, chấp nhặt…Trong khi đàn ông thực thụ tướng mạo khôi ngô, rắn rỏi, bản lĩnh vững vàng, trượng nghĩa...Cũng như đàn bà thực sự phải mang vẻ đằm thắm, dịu dàng, chu đáo, biết thương chồng thương con, thu vén cho cuộc sống gia đình... Chẳng may vớ phải cô vợ trông thô kệch như đàn ông, ăn to nói lớn, vụng về, không biết vun thém cho gia đình, ấy là lấy phải người vợ không phải đàn bà. Chưa kể đến nghĩa đen: có khi lấy phải người nam không ra nam, nữ không ra nữ (lỗi tạo hóa theo dân gian, hay rối loạn giới tính theo khoa học). Hoặc bề ngoài là nữ nhưng thực chất lại là nam. Trong xã hội hiện đại, không thiếu những cặp vợ chồng về chung sống với nhau, thậm chí có con có cái rồi mới phát hiện ra là giới tính của vợ hoặc chồng “có vấn đề”. Thế nên chưa hẳn theo lẽ tất nhiên “ người vợ phải là đàn bà” như quan niệm đơn giản của GS Nguyễn Lân. Tục ngữ không hề “ngớ ngẩn” mà còn vô cùng sâu sắc và kinh nghiệm, đi trước thời đại.
Vuông như bánh chưng tám góc. Rất vuông vắn: Một cái bàn vuông như bánh chưng tám góc.
Nếu có tới tám góc thì đó là hình bát giác. Đây là cách nói ngược, nghĩa đen có ý chế diễu người gói bánh chưng vụng, vuông chẳng thành vuông mà lại “xéo xèo xẹo” như hình bát giác.

X
Xanh rì. Có màu xanh lá cây đậm: Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Bậc đá xanh rì lún phún rêu (HXHương); Trắng phau ngựa trắng xanh rì rừng xanh (Tản Đà)
Xanh rờn. Như màu xanh của cỏ tươi: Nắng vàng mát và cỏ xanh rờn (NgTuân)
Thực ra, cả hai từ "xanh rì"  "xanh rờn" đều giành để mô tả màu xanh sống động của thiên nhiên, gắn với màu xanh  tính chất của cỏ cây chứ không phải màu sắc của các đồ vật hay tranh vẽ. "Xanh rì" thường dùng cho màu xanh hơi tối của lá cỏ rậm rạp (có từ rậm rì là như vậy). Còn xanh rờn lại là màu xanh non mơn mởn của cây cỏ. Không ai nói cái áo màu xanh rờn hay xanh rì. Vì tính chất của cái áo là một vật thể chết, nó chẳng có trạng thái của sắc màu gắn liền với rậm rạp hay thưa thoáng, già hay non.
Xanh rớt. Nói nước da xanh quá.
Xanh lè hay xanh lét, xanh rợn cũng là một kiểu “xanh quá”, rất xanh. Thế nên để phân biệt với những cái rất xanh khác, xanh rớt phải được giải nghĩa là xanh một cách yếu ớt; thường dùng để chỉ nước da xanh biểu hiện ốm yếu, bệnh tật, thiếu sức sống.
Xào xạc Nói tiếng động của nhiều thứ chạm vào nhau: Em không nghe rừng thu, Lá thu kêu xào xạc (Lưu Trọng Lư).
Sỏi đá, gạch, ngói, gỗ, sắt cùng va chạm với nhau cũng là "nhiều thứ" chạm vào nhau, nhưng không bao giờ âm thanh chạm vào nhau của chúng được gọi là "xào xạc".Thuộc tính của "xào xạc" phải là tiếng của cành lá giao nhau, chạm nhau khi có gió lay, nghe mơ hồ và rất êm nhẹ (như chính câu thơ của Lưu Trọng Lư ấy)
Xào xáo Nấu thức ăn bằng dầu mỡ và mắm muối: Tính anh ấy dễ dãi, vợ xào xáo thứ gì thì ăn thứ ấy.
Nấu thức ăn bằng dầu mỡ mắm muối gọi là "xào" cứ không phải là "xào xáo". Còn"xào xáo" theo nghĩa "vợ xào xáo thứ gì ăn thứ ấy" lại có nghĩa là nấu qua loa, nấu cho nhanh, không thành món xào cũng chẳng phải món xáo.
Xáo Nấu thịt với các gia vị: Ông ơi ông vớt tôi nao, Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng (cd); Mười voi không được bát nước xáo (tng).
Thịt kho tàu, kho nghệ hay kho với cà chua đều có thể gọi là cách "nấu thịt với các gia vị". Thuộc tính của món "xáo" là phải có nhiều nước. Thế nên hai câu tiếp theo trong bài ca dao mới là: Có xáo thì xáo nước trong, Đừng xáo nước đục đau lòng cò con. Câu "Ba voi không được bát nước xáo" cũng là nói về món có nhiều nước là vậy đó.
Y
Yêu nhau rào dậu cho kín. Ý nói: khi yêu nhau thì người ta cố che đậy những cái sai sót của nhau: Hai ông ấy rất thân nhau, nên họ luôn bênh vực nhau, yêu nhau rào dậu cho kín mà.
Thực ra “rào dậu” không phải là “che đậy những cái sai sót của nhau”. Đây là dị bản có ý nhấn mạnh của “Yêu nhau thì rào dậu”. Nghĩa đen: Hai nhà ở cạnh nhau, dù thân đến mấy cũng nên có hàng rào ngăn cách nhà nọ với nhà kia tạo ra không gian tự do, độc lập. Không nên vì yêu nhau mà phá vỡ ranh giới, sẽ dẫn đến va chạm, thắc mắc dễ xa nhau. Nghĩa bóng: trong mối quan hệ tình cảm nếu muốn giữ bền chặt, lâu dài thì cần thực hiện những nguyên tắc sống, lối ứng xử, cẩn thận, kín kẽ, đặc biệt là những gì liên quan đến vật chất, tiền bạc phải rõ ràng. Không nên xuề xòa, lâu dần sẽ nảy sinh tâm lý thắc mắc, hơn thua khiến người ta dễ xa nhau.
Kẻ mạo muội viết bài này, dù chưa hết ý, cạn lời, nếu có chỗ nào mạo phạm, xin được anh hồn Nhà từ điển học nổi tiếng GS Nguyễn Lân đại xá và các bậc cao minh cùng độc giả chỉ giáo.
Nội dung trên đây được lược trích từ “Phê bình từ điển” - bản thảo đã được Ban lý luận phê bình, dịch thuật-Hội văn học Nghệ thuật Thanh Hóa thẩm định tháng 6/2013 và cấp kinh phí tài trợ xuất bản 2014. Bạn đọc có thể tìm nội dung đầy đủ hơn trongtuancongthuphong.blogspot.com.
H.T.C
Tác giả gửi Quê Choa
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm riêng của tác giả
Nhãn: Lưu